Doanh nghiệp mắc kẹt giữa chi phí cho sản phẩm xanh và giá bán thị trường

Người tiêu dùng ngày càng sẵn lòng chi trả cao hơn cho các sản phẩm xanh, nhưng để mở rộng thị trường, các nhà sản xuất cần nỗ lực giảm chi phí sản xuất, nhằm đưa giá thành sản phẩm phù hợp hơn với khả năng tài chính của đa số người tiêu dùng.

Nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó vì chi phí cao, công nghệ hạn chế và nguồn nguyên liệu chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất xanh.

Giá cả sản phẩm "xanh" cao là thách thức lớn nhất để phổ biến tiêu dùng. Ảnh: LH

Giá cả sản phẩm "xanh" cao là thách thức lớn nhất để phổ biến tiêu dùng. Ảnh: LH

Giá cao là rào cản lớn

Trong những năm gần đây, ý thức về bảo vệ môi trường và tiêu dùng xanh đã dần được nâng cao tại Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu nghiên cứu, phát triển các sản phẩm thân thiện với môi trường, từ các mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm, đến thời trang và bao bì đóng gói. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các sản phẩm này vẫn còn gặp khó khăn trong việc cạnh tranh về giá với các sản phẩm truyền thống, vốn đã quen thuộc và có giá thành thấp hơn nhiều.

Một ví dụ điển hình là doanh nghiệp nhỏ như Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp Sông Hồng của ông Lê Văn Tám. HTX này sản xuất ống hút từ rau củ, một sản phẩm đáp ứng tiêu chí xanh, thân thiện với môi trường, có thể bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và người nông dân. Thế nhưng, sản phẩm của họ chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường phát triển như Đức, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, vì thị trường trong nước còn quá nhiều rào cản về giá.

Mỗi năm Việt Nam tiêu thụ khoảng 5,3 tỉ ống hút - tương đương gấp 50 lần dân số cả nước. Nếu chỉ 1-2% trong số này rò rỉ ra môi trường, hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng. Tuy nhiên, do chi phí sản xuất cao, giá thành sản phẩm của họ vượt quá khả năng chi trả của phần lớn người tiêu dùng nội địa, khiến sản phẩm xanh khó phổ biến.

Tương tự, các sản phẩm thân thiện môi trường như nước rửa chén làm từ enzyme sinh học từ vỏ dứa của Công ty Fuwa Biotech cũng gặp khó khăn về cạnh tranh giá. Dù có điểm mạnh về công nghệ thân thiện, an toàn, và giúp giảm lo ngại về hóa chất trong sinh hoạt hàng ngày, sản phẩm này có giá khoảng 335.000 đồng cho chai 3,8 lít, đắt hơn các loại cùng dung tích từ 2-3 lần.

Ông Võ Văn Luật, Quản lý phía Nam của công ty, thừa nhận rằng giá cao là rào cản lớn nhất trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ. Chính vì vậy, doanh nghiệp mong muốn có nhiều diễn đàn, hội thảo hơn để nâng cao nhận thức cộng đồng về các sản phẩm xanh và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển bền vững.

Trong lĩnh vực thời trang, Faslink - một doanh nghiệp đã theo đuổi mô hình thời trang bền vững hơn 15 năm qua - cũng đang đối mặt với khó khăn về giá. Bà Nguyễn Bích Diền, Phó tổng giám đốc của đơn vị này, cho biết người tiêu dùng vẫn còn thận trọng khi chọn mua các sản phẩm từ nguyên liệu tái chế, vì giá thành cao hơn so với các sản phẩm truyền thống như polyester hay cotton. Gần đây, Faslink đã tung ra thị trường dòng vải sản xuất từ sợi lá quả dứa, nhưng vẫn phải duy trì giá thành cao do chi phí nghiên cứu, thử nghiệm và sản xuất lớn.

Mặc dù ý thức về môi trường ngày càng được nâng cao, nhưng phần lớn người tiêu dùng vẫn còn dè dặt trong việc chi tiêu cho các sản phẩm xanh.

Bà Phạm Minh Hương, Giám đốc dịch vụ phát triển bền vững của Deloitte Việt Nam, chia sẻ kết quả khảo sát cho thấy, dù có đến 50% người tiêu dùng quan tâm đến sản phẩm xanh, chỉ dưới 30% sẵn sàng chi thêm tiền cho các mặt hàng này. Điều này phản ánh rõ ràng một thực tế, đó là chênh lệch giữa nhận thức và hành động trong tiêu dùng xanh còn rất lớn.

Thách thức về chi phí đầu tư và công nghệ

Người tiêu dùng sẵn sàng trả nhiều hơn cho các sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường, nhưng điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực giảm chi phí sản xuất để phù hợp với khả năng chi tiêu của họ, đặc biệt là đối tượng người tiêu dùng bình dân.

Thách thức này không nhỏ, bởi chi phí đầu tư ban đầu cho sản xuất xanh thường rất lớn, quy trình khắt khe, yêu cầu cao về nguyên liệu, khiến các doanh nghiệp còn e dè trong việc mở rộng quy mô hay đầu tư mạnh mẽ.

Nỗ lực của các nhà sản xuất sử dụng bao bì tái chế. Ảnh minh họa: LH

Nỗ lực của các nhà sản xuất sử dụng bao bì tái chế. Ảnh minh họa: LH

Tại Diễn đàn Tiêu dùng bền vững 2025 gần đây, TS. Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, cũng cho rằng, mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ, sản xuất xanh vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn.

Chi phí ban đầu lớn, quy trình sản xuất khắt khe, cùng yêu cầu về nguyên liệu sạch đều là những rào cản lớn. Nhiều doanh nghiệp chỉ dám thử nghiệm ở quy mô nhỏ, chưa thể mở rộng toàn diện do lo ngại về khả năng sinh lời và cạnh tranh thị trường.

Chia sẻ từ bà Diền của Faslink, cho thấy khó khăn trong nghiên cứu và đưa các ý tưởng sáng tạo về vật liệu tái chế ra thị trường. Nhiều ý tưởng như sản xuất vải từ vỏ chuối, ủ nấm còn nằm trong phòng thí nghiệm hoặc quy trình sản xuất nhỏ lẻ do thiếu công nghệ phù hợp và sự hợp tác trong chuỗi cung ứng "xanh". Bà nhấn mạnh rằng, dù các nhà khoa học trong lĩnh vực này làm rất tốt, việc đưa các sản phẩm này ra thị trường và mở rộng quy mô vẫn còn nhiều trở ngại.

Nguyên liệu tái chế, đặc biệt là nhựa, cũng là khâu khó khăn. Các doanh nghiệp như Unilever, Coca Cola, Suntory PepsiCo, Nestlé… đã phát triển kinh tế tuần hoàn bằng cách thu gom và tái chế rác thải nhựa thành bao bì, nhưng gặp thách thức nguồn nguyên liệu. Giá thành nhựa tái chế cao hơn khoảng 20-30% so với nhựa nguyên sinh, chủ yếu do chi phí thu gom, xử lý và công nghệ chưa đủ hiện đại.

Tại Duy Tân Recycling, một đơn vị chuyên thu gom và tái chế rác thải nhựa, giá thành nhựa tái chế còn cao hơn khoảng 30%, chủ yếu là do chi phí thu gom, phân loại và xử lý lớn. Để giảm chi phí này, ông Lê Viết Đông Hiếu, Trưởng phòng Phát triển bền vững của công ty, đề xuất nâng cao ý thức phân loại rác tại nguồn của người tiêu dùng. Khi nguồn nguyên liệu sạch, đồng nhất hơn, chi phí xử lý sẽ giảm, góp phần làm giảm giá thành sản phẩm cuối cùng.

Các ý kiến đều nhấn mạnh vai trò của sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên: doanh nghiệp, đơn vị thu gom – tái chế, nhà cung cấp công nghệ và các cơ quan quản lý nhà nước. Chỉ khi các phía phối hợp đồng bộ, phát huy hiệu quả của kinh tế tuần hoàn và kinh tế xanh mới có thể bứt phá phát triển tại Việt Nam.

Về dài hạn, công nghệ chính là yếu tố then chốt để giảm giá thành sản phẩm xanh. Các doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ, tiết giảm chi phí để phù hợp với khả năng tài chính, đồng thời mở rộng tiếp cận công nghệ xanh phù hợp quy mô.

Điều này đặt ra bài toán lớn cho các doanh nghiệp nhỏ, vốn gặp khó trong tiếp cận vốn hỗ trợ từ Nhà nước và các nguồn lực khác. Các doanh nghiệp kiến nghị cần có các chính sách đặc thù nhằm khuyến khích chuyển đổi sang các sản phẩm thân thiện môi trường, từ tài chính đến truyền thông, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

"Chỉ khi Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng cùng đồng hành, lan tỏa ý thức trách nhiệm, chúng ta mới xây dựng được một môi trường xanh, sạch và phát triển bền vững cho các thế hệ tương lai", ông Tám của HTX Sông Hồng nói.

Dù còn nhiều thử thách về giá cả, công nghệ, nguyên liệu, nhưng những nỗ lực liên tục của các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và cộng đồng đều hướng tới mục tiêu chung: một nền kinh tế xanh, sạch và phát triển bền vững. Chính sự đồng thuận và hợp tác này sẽ tạo ra các cơ hội mới, thúc đẩy sự phát triển của các sản phẩm xanh, góp phần xây dựng một Việt Nam sạch, đẹp, và nhân văn.

Lê Hoàng

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/doanh-nghiep-mac-ket-giua-chi-phi-cho-san-pham-xanh-va-gia-ban-thi-truong/