Doanh nghiệp Việt: Biến rác thải thành 'vàng xanh'

Trước áp lực sản phẩm thải bỏ lớn gây ô nhiễm môi trường, nhiều doanh nghiệp Việt đã tìm lối đi mới sản xuất sản phẩm thời trang xanh từ nguyên liệu tự nhiên.

Gánh nặng môi trường

May mặc vốn là một trong những ngành tiêu thụ nguyên liệu lớn và cũng thải ra lượng chất thải đáng báo động. Trên thế giới, theo ước tính của Liên hợp quốc, mỗi năm có hơn 92 triệu tấn rác thải dệt may bị thải bỏ, phần lớn được chôn lấp hoặc đốt, chỉ khoảng 12% được tái chế. Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển nhanh của ngành thời trang giá rẻ và thói quen tiêu dùng ngắn hạn, quần áo cũ gần như không được tái chế, đa phần kết thúc vòng đời ở các bãi rác hoặc lò đốt.

Rác thải thời trang đang là thách thức lớn với môi trường. Ảnh minh họa

Rác thải thời trang đang là thách thức lớn với môi trường. Ảnh minh họa

Hệ lụy là vô cùng nghiêm trọng, bởi lẽ, quần áo tổng hợp khi phân hủy tạo ra vi nhựa, thấm vào đất, sông ngòi, thậm chí đi vào chuỗi thực phẩm. Một báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ ra, mỗi năm, Việt Nam thải ra khoảng 1,8 triệu tấn rác thải nhựa, trong đó có phần không nhỏ từ ngành dệt may và tiêu dùng. Khoảng 90% số rác này bị xử lý bằng cách chôn lấp hoặc đốt, tạo thêm nguy cơ ô nhiễm không khí, nước ngầm.

Không chỉ là câu chuyện ô nhiễm, đó còn là sự lãng phí tài nguyên. Mỗi chiếc áo bỏ đi chứa đựng hàng nghìn lít nước và năng lượng trong quá trình sản xuất. Trong khi đó, chuỗi cung ứng ngành may mặc Việt Nam vẫn phụ thuộc nặng nề vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, tạo thêm áp lực về chi phí và sự bấp bênh khi thị trường biến động.

Rõ ràng, nếu không thay đổi, ngành may mặc Việt sẽ phải trả giá đắt, cả về môi trường lẫn năng lực cạnh tranh.

Lối đi bền vững từ nguyên liệu tự nhiên

Trước bài toán nan giải đó, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã chọn con đường “xanh hóa” tận dụng chính phế phẩm nông nghiệp hay nguyên liệu bản địa để tạo ra sợi, vải thân thiện môi trường.

Doanh nghiệp Việt đầu tư nghiên cứu sản xuất sợi từ lá dứa. Ảnh: Ecosoi

Doanh nghiệp Việt đầu tư nghiên cứu sản xuất sợi từ lá dứa. Ảnh: Ecosoi

Một trong những câu chuyện đáng chú ý là của Công ty Cổ phần Kết nối thời trang Faslink, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu biến bã cà phê thành áo sơ mi, tất, túi xách xuất khẩu sang Mỹ, Singapore, Trung Đông. Faslink còn nghiên cứu sợi lá dứa, một nguyên liệu độc đáo có khả năng kháng khuẩn, chống nắng, khử mùi… với hiệu quả trên 98%, hoàn toàn không dùng hóa chất.

Theo bà Trần Hoàng Phú Xuân, người sáng lập Faslink, thay vì chạy đua giá rẻ, doanh nghiệp tập trung vào sản phẩm sáng tạo, gia tăng giá trị và đáp ứng xu hướng bền vững toàn cầu. Cũng theo bà, trước đây, nông dân chỉ đốt bỏ lá dứa, nay nguyên liệu này được tái sinh thành vải, tạo thêm thu nhập và giảm phát thải CO₂”. Tính toán cho thấy, mỗi hecta dứa chuyển đổi có thể giúp nông hộ tăng thêm khoảng 60 triệu đồng/năm.

Không chỉ Faslink, Công ty CP Nghiên cứu Sản xuất và Phát triển sợi ECO và Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại ECOFA cũng ghi dấu ấn khi phát triển quy trình tách xơ dứa không dùng hóa chất, sản xuất hàng chục tấn sợi mỗi tháng. Kỹ sư Đậu Văn Nam, người sáng lập Ecofa, khẳng định, chúng tôi đã thương mại hóa sợi lá dứa ở quy mô công nghiệp, biến phế phẩm nông nghiệp thành nguyên liệu thời trang.

Ở một hướng khác, anh Võ Xuân Đặng (tỉnh Lâm Đồng) đã biến xơ mướp bỏ đi thành dép, bông tắm, miếng rửa chén… xuất khẩu sang Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc. Nhờ mô hình này, nhiều lao động nông thôn có thêm việc làm, thu nhập ổn định 8-10 triệu đồng/tháng. Các sản phẩm từ xơ mướp Ensolife của anh Đặng đã đạt chuẩn OCOP 3 sao năm 2024, khẳng định giá trị của “nguyên liệu xanh” bản địa.

Điều đáng nói, “xanh hóa” không chỉ dừng ở khía cạnh bảo vệ môi trường, mà còn chứng minh hiệu quả kinh tế rõ rệt.

Theo Open Innovation - hệ sinh thái sáng tạo đang kết nối nhiều doanh nghiệp dệt may, từ 60 tấn lá dứa tươi có thể sản xuất 1 tấn sợi, tiêu tốn ít điện và nước hơn so với các chất liệu tổng hợp.

Ở góc độ thị trường, bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam, đánh giá, sợi từ lá dứa là bước tiến lớn, không chỉ giúp Việt Nam giảm phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu, mà còn tạo lợi thế trong tiếp cận các thị trường khó tính.

Sự kết hợp giữa đổi mới công nghệ, tận dụng nguyên liệu bản địa và nhạy bén với xu hướng tiêu dùng đã giúp các doanh nghiệp Việt dần khẳng định vị thế. Nhìn rộng hơn, phát triển thời trang xanh đồng nghĩa với mở ra cơ hội việc làm cho nông dân, nâng cao thu nhập, giảm phụ thuộc nhập khẩu và đặc biệt là nâng vị thế hàng Việt. Mỗi sản phẩm làm từ lá dứa, xơ mướp hay bã cà phê không chỉ là món hàng tiêu dùng, mà còn kể câu chuyện về trách nhiệm môi trường và bản sắc sáng tạo của doanh nghiệp Việt.

Quy trình sản xuất sợi, vải từ bã cà phê. Ảnh minh họa

Quy trình sản xuất sợi, vải từ bã cà phê. Ảnh minh họa

Và để thời trang xanh dần trở thành trụ cột phát triển, nhiều chuyên gia nhìn nhận, cần sự chung tay từ nhiều phía doanh nghiệp tiếp tục đầu tư nghiên cứu và phát triển, Nhà nước hỗ trợ chính sách khuyến khích sản phẩm xanh, người tiêu dùng thay đổi thói quen lựa chọn.

Đặc biệt về phía người tiêu dùng, lãnh đạo Tập đoàn Dệt may Việt Nam - đơn vị tiên phong trong sản xuất sản phẩm xanh cũng từng bày tỏ, cần có chiến dịch hoặc phương thức truyền thông đủ mạnh để người tiêu dùng hiểu và sẵn sàng sử dụng sản phẩm xanh. Bởi lẽ, so với sản phẩm thông thường, sản phẩm may mặc xanh có giá cao hơn gấp nhiều lần.

Đồng quan điểm này, nhiều chuyên gia cũng nhìn nhận, trong quá trình truyền thông, vai trò của cơ quan báo chí là dẫn đầu bởi đây không chỉ là kênh chính thống, đa dạng mà đặc biệt hiệu quả lan tỏa rất cao.

Sản xuất, tiêu dùng sản phẩm may mặc xanh đã và đang trở nên cần thiết, để người tiêu dùng hiểu và đồng hành cùng doanh nghiệp, các cơ quan báo chí phát huy vai trò tiên phong trong công tác tuyên truyền. Điều này không chỉ góp phần thay đổi hành vi mà còn góp sức xây dựng môi trường xanh, sạch hơn.

Hải Linh

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/doanh-nghiep-viet-bien-rac-thai-thanh-vang-xanh-418426.html