Sớm có cơ chế 'ươm mầm' cho doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh

Nghị quyết 68-NQ/TW được ban hành với kỳ vọng trở thành động lực thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân tăng trưởng mạnh về lượng và chất. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu đề ra, cần sớm có cơ chế 'ươm mầm', tạo ra nhiều doanh nghiệp tư nhân chất lượng, dẫn dắt sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp.

Khi bức tranh chưa ‘đồng màu’

Kinh tế Việt Nam có nhiều dấu hiệu khởi sắc, với hơn 24.400 doanh nghiệp mới được thành lập trong tháng 6-2025, cao hơn hai lần so với trung bình cùng kỳ giai đoạn 2021-2024, theo thông tin từ Bộ Tài chính. Số doanh nghiệp quay lại hoạt động tăng 91% so với cùng kỳ, trải rộng từ khu vực doanh nghiệp đến hộ kinh doanh cá thể, phản ánh sự phục hồi của khu vực kinh tế tư nhân sau khi Nghị quyết 68-NQ/TW được ban hành.

Du khách nước ngoài trải nghiệm dịch vụ trên du thuyền do một doanh nghiệp tư nhân đầu tư. Ảnh: Lê Vy

Du khách nước ngoài trải nghiệm dịch vụ trên du thuyền do một doanh nghiệp tư nhân đầu tư. Ảnh: Lê Vy

Tương tự, Báo cáo niềm tin kinh doanh 2025 do Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thực hiện với 1.531 doanh nghiệp vào tháng 6-2025, cũng cho thấy mức độ lạc quan của cộng đồng doanh nghiệp, dù giảm nhẹ so với cùng kỳ, từ 16,1% xuống 15,9%, nhưng niềm tin của doanh nghiệp không suy giảm quá nhiều.

Hơn nữa, tỷ lệ doanh nghiệp tính mở rộng quy mô tăng từ 1,7% lên 2,4%, nhờ những cải cách trong nước, điển hình là “Bộ tứ Nghị quyết trụ cột” về phát triển kinh tế tư nhân (68-NQ/TW), khoa học công nghệ ( 57-NQ/TW), cải cách thủ tục hành chính (66-NQ/TW) và hội nhập quốc tế (59-NQ/TW).

Giữ vị trí lãnh đạo tại ACB, một ngân hàng chuyên phục vụ nhóm khách hàng SME và bán lẻ, ông Từ Tiến Phát, Tổng Giám đốc, sớm cảm nhận được sự phấn khởi và niềm tin vào một giai đoạn phát triển mới của khối kinh tế tư nhân sau Nghị quyết 68. “Một lãnh đạo doanh nghiệp từng chia sẻ với chúng tôi rằng, họ chưa muốn hoặc không muốn mở rộng đầu tư khi chưa thấy chính mình - những doanh nghiệp tư nhân trong chính sách của Nhà nước. Nhưng nay đã khác, họ khẳng định sẽ mở rộng đầu tư”, ông Phát nói.

Cũng theo đại diện ACB, Nghị quyết 68 giúp giải quyết các mối băn khoăn lớn của doanh nghiệp tư nhân. Về vốn, chính sách miễn giảm thuế trong ba năm cho các doanh nghiệp khởi nghiệp và hỗ trợ tiếp cận vốn minh bạch, chi phí thấp đã được nêu rõ. Ngoài ra, việc giảm thanh kiểm tra và đơn giản hóa thủ tục hành chính sẽ tạo sự hứng khởi cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nghị quyết cũng đề cập đến các vấn đề quan trọng khác như: mở rộng thị trường, phát triển chuỗi cung ứng nội địa và thúc đẩy chuyển đổi xanh... tức bao quát gần như toàn bộ những thách thức mà doanh nghiệp tư nhân đang đối mặt.

“Cộng đồng doanh nghiệp rất kỳ vọng những nội dung trong Nghị quyết 68 sẽ sớm được thể chế hóa thành các điều luật và nghị định cụ thể. Quốc hội và Chính phủ đã đưa ra nhiều chương trình hành động rõ ràng và giờ đây, cộng đồng doanh nghiệp đang trông đợi vào bước chuyển tiếp theo, đó là sự triển khai đồng bộ, hiệu quả trên thực tế”, ông Phát nói.

Ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), thừa nhận tinh thần của Nghị quyết 68 đã “thấm rất nhanh” vào các dự thảo luật, nghị định, thông tư của các bộ, ngành. Thậm chí, nhiều địa phương như Thừa Thiên Huế, Hà Nội đã triển khai “luồng xanh” nhằm giảm 60% thời gian thực hiện thủ tục. Tuy nhiên, ông đánh giá, sự lan tỏa chính sách diễn ra không đồng đều, khi “doanh nghiệp lớn thì hào hứng, phấn khởi nhưng doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh vẫn còn tâm lý lo ngại”.

Theo đó, VCCI đã tiến hành khảo sát nhanh với 1.368 hộ kinh doanh về các thủ tục, đặc biệt là thuế. Kết quả, nhiều hộ lo ngại gánh nặng tài chính khi phải đầu tư thiết bị, phần mềm, chi phí quản lý khi 66% dự kiến chi phí vận hành tăng, 64% lo lợi nhuận giảm; 73% thiếu kiến thức và kỹ năng công nghệ; 90% khó thay đổi thói quen cũ. Đáng chú ý, tâm lý lo ngại bị hồi tố, truy thu thuế chiếm tỷ lệ lớn, dù hiện chưa có trường hợp nào bị xử phạt.

Cần cụ thể hóa chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ

Với mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp đến năm 2030, trong đó ít nhất 20 doanh nghiệp tư nhân lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, theo định hướng tại Nghị quyết 68, yêu cầu đặt ra là lúc này là phải “ươm mầm” để các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) có cơ hội vươn mình thành doanh nghiệp lớn.

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tự chủ về công nghệ và nguyên liệu sản xuất. Ảnh: Lê Vy

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tự chủ về công nghệ và nguyên liệu sản xuất. Ảnh: Lê Vy

Chẳng hạn, Hòa Phát bắt đầu xây dựng Khu liên hợp sản xuất thép tích hợp tại Hải Dương vào năm 2007 và được VOF (một quỹ đầu tư của VinaCapital) đầu tư 47 triệu đô la Mỹ dưới hình thức vốn cổ phần, tương đương 5% giá trị vốn hóa khi đó.

Sau 17 năm, công suất của Hòa Phát đã đạt mức 8,5 triệu tấn/năm, doanh thu tăng 25,6 lần so với trước. Nhà sản xuất thép có vốn hóa bậc nhất thị trường này hiện đứng trước nhiều cơ hội tham gia vào các dự án lớn.

Để có những trường hợp thành công tương tự trong bối cảnh phần lớn doanh nghiệp xuất phát từ mô hình kinh tế hộ cá thể, ông Trần Việt Anh, Tổng Giám đốc Công ty xuất nhập khẩu Thái Sơn, mong muốn có nhiều buổi đối thoại giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp theo từng nhóm, từng ngành nghề khác nhau. Qua đó, cơ quan quản lý có thể thấu hiểu những khó khăn mà họ đang đối mặt. Ngoài ra, cần tăng cường các biện pháp bảo vệ thị trường trong nước; tạo công cụ hiệu quả ngăn chặn hàng giá rẻ và nghiên cứu quy định bảo đảm công bằng trong đấu thầu…

“Nhà nước cần cụ thể hóa sự hỗ trợ với nhóm này bằng các văn bản pháp quy hay luật hỗ trợ doanh nghiệp vốn có chứ chưa cần thiết phải ban hành một loạt các quy định mới”, ông Việt Anh lưu ý.

Bổ sung, ông Trần Văn Lê, Chủ tịch Tập đoàn cơ điện Phương Linh, đánh giá môi trường kinh doanh đang chịu sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, khiến các giá trị gia tăng bị bào mòn. Theo đó, bản thân Phương Linh, dù đã xây dựng hai nhà máy và tám trung tâm nghiên cứu nhưng chưa thể coi là giàu do phải đối mặt với vô số chi phí vô hình, từ thủ tục hành chính tới các rào cản khác. “Lợi nhuận ở đâu nếu không có một cơ chế hỗ trợ giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp nội?”, ông Lê trăn trở.

Bên cạnh đó, việc không có luật chống bán phá giá khiến các giá trị như lao động, nguyên liệu và năng lực quản trị tại Việt Nam không được bảo vệ. Trong khi đó, tại Nhật Bản, luật pháp bảo vệ doanh nghiệp bằng việc thiết lập tỷ lệ lãi tối thiểu để họ có thể tồn tại.

Trong khi đó bà Mai Kiều Liên, Tổng giám đốc Công ty sữa Việt Nam (Vinamilk), mong muốn các bộ, ngành và Chính phủ xử lý nhanh vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện chính sách. Với doanh nghiệp, có cơ hội thì có thể đi trước 5-10 năm, nếu mất cơ hội thì phải chậm 50 năm.

“Với doanh nghiệp của chúng tôi, vấn đề phát sinh từ dưới lên tới tổng giám đốc thì yêu cầu chỉ trong 48 tiếng, người quyết định cuối cùng phải xử lý xong. Đối với Chính phủ, tôi mong có thể cho thời gian là bao nhiêu, từ khi có vấn đề vướng mắc cho đến khi lên tới Thủ tướng? Trong vòng 7 ngày, 15 ngày, bao nhiêu cũng được. Nghĩa là có một thời gian nhất định để giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp”, bà Liên nói.

Nhấn mạnh việc doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh rất nhạy cảm với thay đổi chính sách, ông Đậu Anh Tuấn cho rằng, cần cơ chế chính sách đơn giản, minh bạch, ổn định. Với hộ kinh doanh nhỏ, cần có sự hỗ trợ chi tiết và thực chất theo hướng đẩy mạnh hỏi đáp, tập huấn “cầm tay chỉ việc”.

Theo ông, để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 68, các tiêu chí về phát triển doanh nghiệp tư nhân cần được xem là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của chính quyền các cấp, như: tăng trưởng doanh nghiệp mới, thu hút đầu tư, tỷ lệ hài lòng của doanh nghiệp tư nhân. “Có như vậy mới tạo được động lực thực thi chính sách mạnh mẽ ở địa phương”, ông Tuấn lưu ý.

Hoàng Ngọc

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/som-co-co-che-uom-mam-cho-doanh-nghiep-tu-nhan-lon-manh/