Doanh nghiệp Việt 'vướng lưới' SPS: Cần gỡ nút thắt từ thủ tục đến nhận thức
Tại Hội nghị cập nhật các quy định và cam kết SPS trong Hiệp định RCEP tổ chức ở Hưng Yên sáng 21/10, nhiều doanh nghiệp Việt thừa nhận đang 'mỏi mòn' vì thủ tục, vướng chuẩn và thiếu hướng dẫn khi xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc và các nước RCEP.
Trong bối cảnh Lệnh 280 của Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) chuẩn bị có hiệu lực, việc tháo gỡ những điểm nghẽn về thủ tục, tiêu chuẩn và năng lực kỹ thuật đang trở thành yêu cầu cấp thiết nếu Việt Nam muốn tận dụng “cửa mở” từ thị trường hơn 1 tỷ dân.
Doanh nghiệp loay hoay trong mê trận hồ sơ và tiêu chuẩn
Theo thông tin từ TS. Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam, Trung Quốc vừa ban hành Lệnh 280 thay thế Lệnh 248, có hiệu lực từ 1/6/2026. Quy định mới chuyển hướng từ quản lý hành chính sang đánh giá rủi ro, giảm gánh nặng thủ tục và mở rộng cơ hội cho doanh nghiệp Việt xuất khẩu thực phẩm, nông sản.
Điểm khác biệt lớn nhất là Trung Quốc bỏ yêu cầu thẩm định hệ thống quản lý an toàn thực phẩm tương đương của quốc gia xuất khẩu. Thay vào đó, GACC áp dụng mô hình “phân loại quản lý theo rủi ro”, xem xét hồ sơ tùy theo loại sản phẩm, mức độ rủi ro và hồ sơ năng lực của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp Việt ‘vướng lưới’ SPS.
Điều này, theo ông Nam, giúp doanh nghiệp Việt “dễ thở hơn” so với thời Lệnh 248, khi các yêu cầu kiểm soát đồng loạt từng khiến nhiều cơ sở chế biến “tắc” ngay từ vòng nộp hồ sơ. Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo: “Doanh nghiệp cần chuẩn bị kỹ hồ sơ và hiểu rõ quy định. Trung Quốc linh hoạt hơn, nhưng không nới lỏng chuẩn an toàn. Sự chuyên nghiệp và tuân thủ mới là yếu tố quyết định.”
Phát biểu tại hội nghị, bà Đỗ Thị Sen, Phó Giám đốc Công ty TNHH Hoàng Minh Châu Hưng Yên, cho biết doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện các thủ tục đăng ký theo Lệnh 248: “Hồ sơ nhiều, quy chuẩn phức tạp, làm online thì lỗi, mà hướng dẫn lại rời rạc. Nhiều doanh nghiệp nộp hồ sơ 6 tháng vẫn chưa có phản hồi.”
Với sản phẩm bột nghệ, bà Sen cho biết phía đối tác Trung Quốc đã có nhu cầu nhập khẩu, song quy trình đăng ký chứng chỉ và kiểm định quá phức tạp khiến thương vụ bị đình trệ. “Nếu có hướng dẫn cụ thể từ Bộ Nông nghiệp và các Sở, doanh nghiệp địa phương sẽ dễ dàng hơn. Chúng tôi mong các cơ quan chức năng rút ngắn thời gian cấp chứng nhận từ 6 tháng xuống còn 3 tháng để không lỡ cơ hội xuất khẩu,” bà nói thêm.
Trước thực tế này, ông Ngô Xuân Nam thừa nhận hồ sơ đăng ký mã doanh nghiệp theo Nghị định 248 của Tổng cục Hải quan Trung Quốc và các quy định pháp luật của Việt Nam về an toàn thực phẩm đối với nông sản thực phẩm xuất khẩu sang TQ, doanh nghiệp cần phải chuẩn bị 40 loại giấy tờ, từ hồ sơ kỹ thuật, hình ảnh nhà xưởng, giấy khám sức khỏe cho người lao động, hình ảnh sản phẩm... “Nhưng để đảm bảo an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng thì các quy định này là hoàn toàn phù hợp. Nếu doanh nghiệp làm sai một chi tiết nhỏ, chẳng hạn dùng tiếng Việt thay vì tiếng Anh hay tiếng Trung, hồ sơ sẽ bị trả lại. Việc chậm 3-6 tháng là bình thường” ông nói.
Theo ông Nam, nhiều doanh nghiệp Việt vẫn chưa coi trọng việc tuân thủ chuẩn SPS (biện pháp kiểm dịch động, thực vật và an toàn thực phẩm), trong khi đây là điều kiện tiên quyết để hàng hóa có thể lưu thông chính ngạch trong khu vực RCEP.
Ông Nam cũng cho biết thêm, sau hội nghị này, Văn phòng SPS Việt Nam sẽ báo cáo Lãnh đạo Bộ để chỉ đạo các đơn vị liên quan rà soát lại quy trình xử lý hồ sơ phía Việt Nam, đồng thời trao đổi với Tổng cục Hải quan Trung Quốc tại Phiên họp Ủy ban SPS sắp tới. Mục tiêu là đề nghị phía Bạn quan tâm, ưu tiên hơn đối với các hồ sơ đăng ký của Việt Nam, qua đó rút ngắn tối đa thời gian xử lý, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình đăng ký.
Từ câu chuyện vịt sấy đến bài học mở cửa thị trường
Một ví dụ khác được nêu tại hội nghị đến từ một doanh nghiệp Hưng Yên chuyên sản xuất vịt sấy bán thành phẩm. Đại diện doanh nghiệp cho biết họ đã được đối tác Trung Quốc “mở cửa” và cam kết tiêu thụ độc quyền, song sản phẩm vẫn chưa có trong danh mục xuất khẩu giữa hai nước nên không thể thực hiện hợp đồng.
Phản hồi vấn đề này, ông Ngô Xuân Nam cho biết: “Không thể có chuyện độc quyền xuất khẩu. Việt Nam tham gia WTO nên mọi doanh nghiệp có quyền bình đẳng. Tuy nhiên, sản phẩm có nguồn gốc động vật phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định kiểm dịch và đàm phán mở cửa thị trường.”
Ông cho biết Văn phòng SPS Việt Nam sẽ kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ đạo Cục Thú y gửi công thư sang phía Trung Quốc để xem xét đàm phán bổ sung danh mục. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần chuẩn bị hồ sơ kỹ thuật, kiểm dịch và tiêu chuẩn an toàn thực phẩm sẵn sàng trước khi phía bạn mở cửa.
Bên cạnh vướng mắc thủ tục, một vấn đề được nhiều doanh nghiệp nhắc đến là gia hạn mã số xuất khẩu. Chủ một hợp tác xã xuất khẩu nhãn sấy Hưng Yên, đơn vị tiên phong xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc, chia sẻ: “Bộ hồ sơ ban đầu rất vất vả mới đạt chuẩn. Nhưng nếu quên gia hạn sau 5 năm, mã sẽ tự động hết hiệu lực và mất vĩnh viễn.”
Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam nhấn mạnh, Nghị định 280 đã có cải tiến quan trọng: cơ sở đủ điều kiện sẽ được tự động gia hạn thêm 5 năm, giảm đáng kể gánh nặng hành chính. Tuy vậy, doanh nghiệp vẫn phải chủ động theo dõi thời hạn hiệu lực, “giống như gia hạn giấy phép lái xe hay đăng kiểm ô tô,” ông ví von.
Đáng chú ý, Văn phòng SPS đang xây dựng cổng thông tin điện tử cảnh báo sớm, dự kiến ra mắt cuối năm 2025, giúp doanh nghiệp nhận thông báo tự động khi gần hết hạn mã số hoặc có thay đổi từ phía GACC.
Nhiều chuyên gia tại hội nghị cho rằng, điểm yếu của doanh nghiệp Việt không chỉ ở thiếu thông tin, mà còn ở thiếu năng lực kỹ thuật và hệ thống kiểm soát chất lượng đồng bộ.
Các viện nghiên cứu như Viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch đã giới thiệu nhiều công nghệ bảo quản tiên tiến như màng phủ sinh học từ sáp ong và vỏ tôm, xử lý khí ethylen nội sinh, hay công nghệ bảo quản “trên cây” giúp kéo dài thời gian thu hoạch thêm 1-3 tháng. Những công nghệ này không chỉ nâng chất lượng nông sản, mà còn đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm trong khuôn khổ RCEP.
Tuy nhiên, phần lớn hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ vẫn thiếu vốn để đầu tư hạ tầng và thiết bị bảo quản đạt chuẩn. “Nếu không có chính sách tín dụng hỗ trợ, doanh nghiệp sẽ khó đạt chuẩn kỹ thuật mà các thị trường RCEP yêu cầu,” một đại biểu nêu ý kiến.
Việc Trung Quốc chuyển sang mô hình quản lý theo rủi ro, cùng với các cam kết SPS trong Hiệp định RCEP, cho thấy xu hướng chuẩn hóa toàn chuỗi giá trị nông sản, từ vùng trồng, chế biến đến bảo quản và vận chuyển.
Ông Ngô Xuân Nam khẳng định: “Lệnh 280 là cơ hội lớn, nhưng cũng là phép thử. Ai tuân thủ chuẩn quốc tế sẽ ở lại; ai coi nhẹ tiêu chuẩn sẽ bị loại.”
Trong bối cảnh các thị trường trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia ngày càng siết chặt kiểm dịch và truy xuất nguồn gốc, việc nâng cao năng lực SPS không còn là yêu cầu đối phó, mà là chiến lược sống còn của ngành nông sản Việt Nam.