Đột phá công nghệ - đưa công nghiệp hỗ trợ vào chuỗi giá trị toàn cầu
Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều tín hiệu tích cực, tuy nhiên điểm nghẽn lớn nhất là công nghệ khi phần lớn doanh nghiệp vẫn dừng ở mức gia công đơn giản, giá trị thấp.
Muốn bứt phá, ngành công nghiệp hỗ trợ buộc phải đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, gia tăng hàm lượng công nghệ và từng bước làm chủ quy trình sản xuất, coi đây là nền tảng để nâng sức cạnh tranh và khẳng định vị thế trên bản đồ công nghiệp khu vực.

Toàn cảnh tọa đàm. Ảnh: Nghiêm Lan
300 doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng của Samsung, Honda, Toyota
Những năm qua, Chính phủ và Bộ Công Thương đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đổi mới sáng tạo, đầu tư ứng dụng công nghệ tiên tiến và đào tạo nhân lực kỹ thuật cao.
Song song với đó, nhiều chương trình hợp tác giữa cơ quan quản lý, địa phương và doanh nghiệp được triển khai, nhằm thúc đẩy nội địa hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, hướng tới sản xuất thông minh và bền vững.
Theo ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), hiện cả nước có gần 7.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, tập trung ở 5 lĩnh vực: Cơ khí, ô tô, điện - điện tử, dệt may và công nghệ cao. Trong đó, khoảng 300 doanh nghiệp đã tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn FDI lớn như Samsung, Toyota, Honda, LG… Một số doanh nghiệp trong nước đã làm chủ quy trình sản xuất linh kiện kỹ thuật cao như khuôn mẫu, chi tiết nhựa và kim loại chính xác.
Theo ông Nguyễn Vân - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thành phố Hà Nội, thành phố đã cơ bản đạt mục tiêu phát triển 1.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, trong đó khoảng 35% đạt tiêu chuẩn quốc tế.
“Hà Nội lựa chọn, ưu tiên các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh và giá trị gia tăng cao, từng bước hình thành các cụm liên kết ngành gắn chặt với chuỗi sản xuất toàn cầu, với vị thế của Thủ đô”, ông Nguyễn Vân nhấn mạnh.
Tuy vậy, tỷ lệ nội địa hóa của nhiều ngành vẫn ở mức thấp, mới đạt 30–40%, chưa đáp ứng mục tiêu 50–60% mà Chính phủ đề ra. Hạn chế lớn nhất của doanh nghiệp nội là năng lực công nghệ, giá thành sản xuất và khả năng R&D còn yếu, trong khi yêu cầu của các chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng khắt khe.
Đặc biệt, công nghệ vẫn được nhìn nhận là một điểm nghẽn lớn của ngành. Do đó doanh nghiệp chưa đủ năng lực cung cấp linh kiện và phụ tùng có hàm lượng công nghệ cao, kỹ thuật phức tạp đáp ứng các tiêu chuẩn chuỗi sản xuất hiện đại.

Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thành phố Hà Nội Nguyễn Vân. Ảnh: Nghiêm Lan
Công nghệ “chìa khóa” tăng tính cạnh tranh
Theo ông Cao Văn Hùng, Giám đốc Phát triển thị trường quốc tế Công ty CP Cơ khí chính xác Smart Việt Nam, để tham gia sâu vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn, doanh nghiệp phải xác định rõ nhiệm vụ cốt lõi và hướng đầu tư chiến lược.
Với Smart Việt Nam, ba yếu tố tạo nên sức cạnh tranh gồm đầu tư theo chiều sâu, chuẩn hóa quy trình sản xuất toàn diện và xây dựng văn hóa chất lượng trong từng khâu vận hành. “Gia tăng hàm lượng công nghệ là lối thoát duy nhất giúp sản phẩm có giá trị gia tăng và tạo rào cản thị trường,” ông Hùng khẳng định.
Theo ông Hùng, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt nếu vẫn dựa vào gia công giá rẻ, doanh nghiệp Việt sẽ khó phát triển bền vững. Làm chủ công nghệ giúp doanh nghiệp vươn lên thành nhà cung cấp cấp 1, cấp 2, trực tiếp làm việc với khách hàng, chủ động định hướng đầu tư và mở rộng sang các lĩnh vực có biên lợi nhuận cao như y tế, hàng không, từng bước khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ông Nguyễn Vân, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Hà Nội, cho biết thành phố đang triển khai nhiều chương trình giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng hợp tác đầu tư và tăng cơ hội xúc tiến thương mại.
Hằng năm, Hà Nội tổ chức triển lãm thu hút hàng trăm doanh nghiệp FDI, tổ chức quốc tế và doanh nghiệp trong nước tham gia trưng bày, kết nối và ký kết hợp đồng B2B. Song song, thành phố khảo sát, tập huấn, tham quan học hỏi ở nước ngoài, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ tiên tiến và các chính sách phát triển.
Hiệp hội còn đóng vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp – cơ quan quản lý – cơ sở đào tạo, hợp tác với các trường đại học để phát triển nhân lực chất lượng cao.
Đặc biệt, Hà Nội mở rộng hợp tác với Tập đoàn ABE (Pháp), Hiệp hội Công nghiệp Kobe (Nhật Bản) và Tập đoàn N&G, hỗ trợ doanh nghiệp Việt tham gia chuỗi cung ứng của Boeing, Airbus, khẳng định vị thế đầu tàu công nghiệp hỗ trợ của Thủ đô.
Ông Chu Việt Cường, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp (IDC), cho biết Bộ đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Từ năm 2016, Bộ xây dựng Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, tập trung tư vấn cải tiến sản xuất, đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ và sản xuất thử nghiệm sản phẩm mới.
Cùng với đó, Trung tâm IDC và mạng lưới vệ tinh địa phương được đầu tư hiện đại, trở thành “bà đỡ” cho doanh nghiệp trong tư vấn kỹ thuật, thử nghiệm, tiêu chuẩn hóa sản phẩm. Bộ cũng phối hợp với các tập đoàn FDI như Toyota, Samsung để hỗ trợ doanh nghiệp Việt tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Riêng năm 2025, chương trình Smart Factory sẽ tiếp tục mở rộng cho 10 doanh nghiệp ở cả hai miền, góp phần tăng tỷ lệ nội địa hóa và năng lực công nghiệp quốc gia.
Nhiều vấn đề đặt ra để ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam gỡ “điểm nghẽn” công nghệ đã được trao đổi dưới những góc nhìn đa dạng và sâu sắc tại tọa đàm với chủ đề: “Gia tăng hàm lượng công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm công nghiệp hỗ trợ” do Tạp chí Công thương tổ chức ngày 11-11.














