Đột phá thể chế để vượt qua điểm nghẽn và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia

Công nhân tại một doanh nghiệp. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu ý kiến góp ý dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng của Phó giáo sư-Tiến sỹ Phạm Thị Hồng Điệp, Phó Trưởng khoa Kinh tế chính trị, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trong thập niên qua, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu nổi bật về tăng trưởng và giảm nghèo.
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ: “Thể chế chính trị là then chốt, thể chế kinh tế là trọng tâm, các thể chế khác là rất quan trọng.” Chủ trương này thể hiện sự kế thừa và phát triển tư duy đổi mới, đồng thời khẳng định thể chế phát triển là trụ cột trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2026-2035, đặc biệt nhấn mạnh vai trò dẫn dắt của thể chế kinh tế đối với năng suất, đổi mới sáng tạo và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Tuy nhiên, quá trình phát triển vẫn bị cản trở bởi nhiều “điểm nghẽn thể chế” như hệ thống pháp lý chồng chéo, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng, năng lực thực thi chính sách còn hạn chế, và cơ chế phân cấp-trách nhiệm giải trình chưa rõ ràng. Những hạn chế này làm suy giảm động lực của khu vực tư nhân, kìm hãm đổi mới sáng tạo và ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong bối cảnh chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tri thức và hội nhập sâu rộng, yêu cầu hoàn thiện thể chế trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Một thể chế phát triển hiện đại không chỉ là khung khổ pháp lý hoàn chỉnh mà còn phải tái cấu trúc quan hệ giữa Nhà nước-thị trường-xã hội, kiến tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng bền vững.
Bước phát triển trong tư duy của Đảng
Qua 8 kỳ Đại hội kể từ dấu mốc Đổi mới toàn diện năm 1986 (từ Đại hội VI đến Đại hội XIII), nhận thức của Đảng về thể chế kinh tế đã phát triển liên tục, từ cơ chế quản lý hành chính sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh.
Nếu như Đại hội VI mở đường cho đổi mới tư duy, thì Đại hội IX đã xác lập nền tảng lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội X-XI tiếp tục các quan điểm hoàn thiện cấu trúc thể chế.
Đến Đại hội XII-XIII, tư duy thể chế đạt đến mức hiện đại-hội nhập-kiến tạo phát triển. Đây chính là tiến trình nhất quán, phản ánh tầm nhìn của Đảng trong việc xây dựng một thể chế kinh tế năng động, minh bạch và hiệu quả, tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời kỳ mới.
Chủ trương “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước; trong đó thể chế chính trị là then chốt, thể chế kinh tế là trọng tâm, các thể chế khác là rất quan trọng” trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn chuyển tiếp sang kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên của kinh tế số, kinh tế xanh và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trước hết, đây là sự kế thừa và phát triển tư duy đổi mới thể chế đã được hình thành qua nhiều kỳ Đại hội. Nếu như các Đại hội trước tập trung vào hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì Dự thảo Báo cáo chính trị lần này mở rộng tầm nhìn, coi thể chế phát triển là một hệ thống tổng thể, liên thông giữa thể chế chính trị-kinh tế-xã hội, bảo đảm sự vận hành hài hòa của toàn bộ nền kinh tế-xã hội.
Thứ hai, chủ trương này khẳng định vai trò quyết định của thể chế trong phát triển nhanh và bền vững. Thực tiễn trong và ngoài nước cho thấy, quốc gia nào có thể chế minh bạch, năng động, có khả năng thúc đẩy đổi mới sáng tạo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể kinh tế thì quốc gia đó có năng suất và năng lực cạnh tranh cao hơn.
Việc xác định thể chế chính trị là then chốt thể hiện yêu cầu tăng cường năng lực lãnh đạo, bảo đảm ổn định chính trị-nền tảng của phát triển; còn việc đặt thể chế kinh tế là trọng tâm khẳng định kinh tế là trụ cột tạo nguồn lực vật chất cho sự phát triển.
Thứ ba, chủ trương này có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thách thức: tăng trưởng chậm lại, đổi mới sáng tạo còn yếu, năng lực cạnh tranh chưa cao, biến đổi khí hậu và chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ. Một thể chế phát triển đồng bộ, minh bạch và hiệu quả sẽ là điều kiện tiên quyết để khơi thông các nguồn lực, nhất là khu vực tư nhân, thúc đẩy phát triển bền vững và nâng cao vị thế quốc gia.
Thứ tư, chủ trương này thể hiện tư duy “phát triển dựa vào thể chế” - coi thể chế không chỉ là công cụ quản lý, mà là động lực phát triển, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là bước phát triển mới trong tư duy của Đảng, phù hợp với xu thế quản trị hiện đại và mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Những điểm nghẽn thể chế kinh tế chủ yếu
Thứ nhất, khung pháp lý và chính sách kinh tế còn chồng chéo. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện có hơn 300 luật và bộ luật với nhiều văn bản luật quan trọng đã được ban hành, nhưng một trong những trở ngại then chốt trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là tình trạng chồng chéo. Đơn cử trong lĩnh vực đất đai-đầu tư-đấu thầu, mật độ chồng chéo rất cao.
Vì vậy, việc rà soát và điều chỉnh để khắc phục chồng chéo giữa Luật Đất đai và Luật Đấu thầu, đặc biệt tại các điều liên quan đến “nhà đầu tư," “liên danh," “tổ chức kinh tế” và “dự án sử dụng đất," là rất cần thiết để thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành hiệu quả hơn.
Thứ hai, tồn tại điểm nghẽn thể chế về quyền sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quyền sở hữu-bao gồm tài sản hữu hình (như đất đai, nhà xưởng, máy móc) và tài sản vô hình (như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, sáng chế, nhãn hiệu) - yếu tố then chốt để đảm bảo phân bổ nguồn lực hiệu quả và khuyến khích đổi mới sáng tạo.

Sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. (Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN)
Thể chế quyền sở hữu ở Việt Nam - cả hữu hình và vô hình - đang ở điểm giao giữa lý luận và thực tiễn vận hành. Với tài sản hữu hình, giới hạn sở hữu và thủ tục hành chính vẫn là nút thắt; với tài sản vô hình, mặc dù khung pháp lý đã được cải thiện, nhưng kết nối với thị trường vốn, thương mại hóa và hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp vẫn còn chưa hoàn thiện.
Việc hoàn thiện thể chế quyền sở hữu vừa là điều kiện để kích thích khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn, vừa là nhân tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, thể chế về tiếp cận nguồn lực như vốn, đất đai và công nghệ còn nhiều hạn chế. Trên thực tế, phần lớn doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn trong việc vay vốn tín dụng do thiếu tài sản thế chấp, hồ sơ phức tạp và phải chịu lãi suất cao hơn so với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Vấn đề tiếp cận đất đai, một khảo sát năm 2024 của VCCI cho thấy có tới gần 74% doanh nghiệp phải hoãn hoặc hủy bỏ kế hoạch kinh doanh vì các thủ tục hành chính đất đai phức tạp. Ngoài ra, cơ chế hỗ trợ chuyển giao và ứng dụng công nghệ mới chưa thực sự hiệu quả, khiến khu vực tư nhân khó đổi mới và nâng cao năng suất. Hệ quả là doanh nghiệp tư nhân khó tích lũy đủ nguồn lực để đầu tư cho đổi mới sáng tạo, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, từ đó làm chậm quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm vai trò của khu vực tư nhân trong việc dẫn dắt tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Ảnh hưởng tới đổi mới sáng tạo và năng lực cạnh tranh quốc gia
Khu vực tư nhân hiện là một trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, đóng góp khoảng 50% GDP và tạo việc làm cho gần 85% lực lượng lao động (nguồn VCCI, 2024). Tuy nhiên, khi thể chế thiếu tính khuyến khích phát triển-thông qua các thủ tục hành chính phức tạp, quyền tiếp cận nguồn lực bị hạn chế, thì doanh nghiệp tư nhân không thể phát huy vai trò đổi mới sáng tạo như mong đợi. 35% doanh nghiệp cho biết họ vẫn phải “trả thêm chi phí không chính thức” để hoàn tất thủ tục đầu tư (VCCI, 2024). Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp chỉ dừng ở khâu gia công, thiếu đầu tư công nghệ và không đủ lực để dẫn dắt chuỗi giá trị cao hơn.
Về chất lượng thể chế, theo đánh giá của UNDP, có tới 60% doanh nghiệp tư nhân cho biết họ “bị phân biệt” trong tiếp cận nguồn lực so với doanh nghiệp nhà nước (VCCI, 2024). Những hạn chế ấy kìm hãm việc hình thành các doanh nghiệp vừa và lớn đủ quy mô để dẫn dắt đổi mới sáng tạo, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu-từ đó năng lực cạnh tranh quốc gia không được nâng lên như kỳ vọng.
Thực tế cho thấy, năng suất lao động khu vực tư nhân nội địa Việt Nam vẫn chỉ bằng khoảng 36% khu vực nhà nước và 22% khu vực FDI (VCCI, 2024) Mặc dù khu vực tư nhân đóng góp lớn nhưng hầu hết vẫn là doanh nghiệp nhỏ, không đủ lực để đầu tư R&D và công nghệ cao. Nếu không tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, Việt Nam khó vượt khỏi “bẫy thu nhập trung bình” và khó đạt được vị trí cạnh tranh cao trên trường quốc tế.

Sản xuất linh kiện điện tử. (Nguồn: TTXVN)
Trong bối cảnh chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam cần định hình một mô hình thể chế phát triển mới mang tính kiến tạo, hiện đại và linh hoạt hơn, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và hội nhập toàn cầu. Mô hình thể chế này phải bảo đảm vai trò trung tâm của thị trường, song song với sự định hướng, dẫn dắt của Nhà nước kiến tạo phát triển, tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Trước hết, thể chế phải được xây dựng theo hướng kiến tạo và thị trường hóa; trong đó Nhà nước không can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế mà tập trung vào hoạch định chính sách, hoàn thiện luật chơi và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng. Thị trường cần được trao vai trò chủ đạo trong phân bổ nguồn lực, đặc biệt là vốn, đất đai, năng lượng và dữ liệu - những yếu tố quyết định năng suất trong kỷ nguyên số.
Bên cạnh đó, mô hình thể chế mới phải là thể chế số và thể chế xanh. Thể chế số đòi hỏi toàn bộ hoạt động quản lý công và dịch vụ công được số hóa, minh bạch và tích hợp dữ liệu, giảm tối đa chi phí giao dịch cho người dân và doanh nghiệp.
Cùng với đó, thể chế xanh là trụ cột để Việt Nam chuyển sang mô hình tăng trưởng bền vững, hướng tới phát thải ròng bằng không (Net Zero) vào năm 2050. Cần hình thành cơ chế tài chính xanh, thị trường carbon và chính sách ưu đãi cho các dự án năng lượng tái tạo, đổi mới công nghệ sạch.
Cuối cùng, Việt Nam cần xây dựng thể chế tri thức và phân quyền hiệu quả, trong đó tri thức, khoa học và đổi mới sáng tạo trở thành động lực then chốt. Cơ chế pháp lý cần khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu-phát triển (R&D), bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển nhân lực số và kết nối chặt chẽ giữa doanh nghiệp-trường đại học-viện nghiên cứu.
Song song, phải tăng cường phân quyền và trách nhiệm giải trình cho chính quyền địa phương, giúp thể chế kinh tế trở nên năng động, thích ứng nhanh hơn với biến động toàn cầu và các tiêu chuẩn hội nhập quốc tế.
Tóm lại, mô hình thể chế mà Việt Nam cần hướng tới trong giai đoạn mới là thể chế kiến tạo-số hóa-xanh-tri thức-phân quyền; trong đó Nhà nước giữ vai trò định hướng và kiến tạo, thị trường làm trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể đổi mới và người dân là trung tâm của phát triển. Đây chính là nền tảng để Việt Nam bứt phá, bắt kịp xu thế của thời đại và vững vàng tiến vào kỷ nguyên phát triển xanh, số và tri thức./.











