Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam cần hơn 25.000 tỷ để vận hành, bảo trì mỗi năm
Theo Ủy ban Kinh tế, tờ trình của Chính phủ tính toán sau năm 2035, khi dự án hoàn thành, chi phí vận hành và bảo trì hàng năm từ 2036 đến 2066 ở mức hơn 25.000 tỷ đồng và chưa rõ phương án chi trả.
Đường sắt tốc độ cao chính thức trình quốc hội
Sáng 13/11, Bộ trưởng Giao thông vận tải thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, trước khi thảo luận tại tổ nội dung này.
Theo báo cáo tóm tắt tờ trình của Chính phủ, tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được trình ra Quốc hội lần này dự kiến bắt đầu từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội) và kết thúc tại ga Thủ Thiêm (TP.HCM), đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố.
Dự án có chiều dài tuyến khoảng 1.541 km, xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435 mmvới tốc độ thiết kế 350 km/h. Đường sắt tốc độ cao, theo phương án Chính phủ trình sẽ vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh và có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết.
Về công nghệ, đường sắt chạy trên ray, sử dụng công nghệ đoàn tàu động lực phân tán cho tàu khách, động lực tập trung cho tàu hàng; thông tin tín hiệu tương đương hệ thống đang sử dụng tại các quốc gia phát triển đang khai thác đường sắt tốc độ cao.
Theo phương án thiết kế sơ bộ, hướng tuyến của đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được nghiên cứu và lựa chọn ngắn nhất có thể, bảo đảm phù hợp với quy hoạch quốc gia.
"Dự án hạn chế đi qua các khu vực nhạy cảm về môi trường, các khu di tích, danh lam thắng cảnh, đất quốc phòng; giảm khối lượng giải phóng mặt bằng, tránh các khu vực đông dân cư", theo tờ trình của Chính phủ.
Về vị trí quy mô nhà ga, trên dọc tuyến cao tốc, dự kiến bố trí 23 ga hành khách, mỗi vị trí ga quy hoạch không gian phát triển từ 200 đến 500 ha. 5 ga hàng hóa có quy mô mỗi ga khoảng 24,5 ha.
Về phương án giải phóng mặt bằng, tái định cư, Chính phủ cho biết sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng đất của dự án khoảng 10.827 ha; số dân tái định cư khoảng 120.836 người.
Dự án này sẽ được thực hiện theo hình thức đầu tư công với tổng mức đầu tư sơ bộ hơn 1,7 triệu tỷ đồng (khoảng 67,34 tỷ USD).
Dự kiến nguồn vốn ngân sách Nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn để đầu tư hoàn thành dự án vào năm 2035, bố trí vốn trong khoảng 12 năm (từ năm 2025 đến năm 2037), bình quân mỗi năm khoảng 5,6 tỷ USD - tương đương khoảng 1,3% GDP năm 2023 và khoảng 1% GDP năm 2027 (thời điểm khởi công dự án). Quá trình triển khai sẽ huy động đa dạng các nguồn vốn hợp pháp để đầu tư.
Về tiến độ thực hiện dự án, Chính phủ tính toán hoàn thành công tác lập và phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế vào năm 2025- 2026; khởi công dự án năm 2027; phấn đấu cơ bản hoàn thành toàn tuyến năm 2035.
Đánh giá về hiệu quả, theo báo cáo của Chính phủ, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam sẽ góp phần tăng cường kết nối các cực tăng trưởng, mở ra không gian phát triển kinh tế mới; tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tạo tiền đề, động lực phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia...
Lo áp lực trả nợ các giai đoạn sau
Trong báo cáo thẩm tra sơ bộ chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, Thường trực Ủy ban Kinh tế cơ bản thống nhất với đề xuất của Chính phủ về phạm vi, quy mô đầu tư và hướng tuyến.
Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đề nghị làm rõ phương án kết nối tuyến đường sắt tốc độ cao với mạng lưới đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị và hệ thống giao thông khác; kết nối liên thông với mạng lưới đường sắt trong khu vực và quốc tế, đồng thời làm rõ hướng tuyến theo nguyên tắc "thẳng nhất có thể", nhất là đoạn đi qua tỉnh Nam Định để bảo đảm hiệu quả dự án.
Cơ quan thẩm tra cho hay, tờ trình của Chính phủ không nêu rõ dự kiến mức vốn trong từng giai đoạn nhưng phụ lục kèm theo cho thấy tổng chi phí các năm 2026-2030 khoảng 733.000 tỷ đồng, bằng 25,5% tổng vốn đầu tư công trung hạn nguồn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2021-2025 và 49% tổng vốn đầu tư công trung hạn nguồn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021-2025. Như vậy, là không bảo đảm quy định của Luật Đầu tư công.
Do đó, Ủy ban Kinh tế cho rằng cần báo cáo Quốc hội xem xét, thảo luận kỹ lưỡng về việc áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt khác với Luật Đầu tư công để bảo đảm căn cứ pháp lý trong quá trình triển khai thực hiện.
Tờ trình của Chính phủ và các tài liệu kèm theo chưa thể hiện rõ về phân kỳ đầu tư, dự kiến số vốn cụ thể trong các giai đoạn. Đây là nội dung quan trọng cần có sự phối hợp giữa các bộ, cơ quan liên quan để xây dựng phương án bố trí vốn bảo đảm tính khả thi.
Chính phủ tính toán sau năm 2035, khi dự án hoàn thành, chi phí vận hành và bảo trì hàng năm từ 2036 đến 2066 đều ở mức trên 25.000 tỷ đồng và chưa rõ phương án chi trả. Để có cơ sở Quốc hội xem xét quyết định, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ báo cáo rõ hơn về phương án bố trí vốn và khả năng cân đối vốn ngân sách Nhà nước sử dụng cho dự án.
Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị rà soát danh mục, số vốn cho các dự án ưu tiên đầu tư trong các giai đoạn tới và phương án ưu tiên bố trí vốn đối với các dự án, báo cáo Quốc hội quyết định đối với từng giai đoạn cho phù hợp.
Về an toàn nợ công, Chính phủ khẳng định cả 3 tiêu chí về mức dư nợ công, dư nợ Chính phủ và dư nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn cho phép, nhưng Ủy ban Kinh tế chỉ ra 2 tiêu chí quan trọng là bội chi ngân sách Nhà nước bình quân và chi trả nợ trực tiếp dự kiến tăng ở mức khá cao.
Ủy ban Kinh tế ước tính bội chi ngân sách Nhà nước bình quân là 4,1% GDP, tăng trên 30% so với mức mục tiêu là 3%; chi trả nợ trực tiếp khoảng 33-34%, vượt mức giới hạn 25% tổng thu ngân sách Nhà nước.
Vì vậy, cơ quan đề nghị Chính phủ đánh giá cụ thể về tác động của việc đầu tư dự án đến bội chi ngân sách Nhà nước, nợ công, khả năng trả nợ của ngân sách nhà nước trong trung hạn và dài hạn... để bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, không gây áp lực trả nợ lên các giai đoạn sau.
Quốc hội sẽ thảo luận hội trường nội dung này vào ngày 20/11 và biểu quyết thông qua vào 30/11, ngày cuối cùng của kỳ họp 8.