Dù muốn phát triển theo hướng nghiên cứu nhưng hiện CSGDĐH gặp không ít rào cản
Hiện nay, hoạt động nghiên cứu hiện vẫn gặp nhiều rào cản về cơ chế, từ tài chính, quản lý đến sở hữu trí tuệ và ứng dụng thực tiễn.
Tại các cơ sở giáo dục đại học, hoạt động nghiên cứu đóng vai trò then chốt, không chỉ góp phần tạo ra tri thức mới mà còn nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.
Tại buổi làm việc với Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: "Đại học muốn tồn tại lâu dài cần phát triển theo hướng nghiên cứu, và công nghệ sẽ thay đổi giáo dục trong thời đại hiện nay".
Tuy nhiên, theo đánh giá của đại diện các cơ sở giáo dục đại học, việc phát triển hoạt động nghiên cứu tại Việt Nam hiện nay vẫn đang gặp nhiều thách thức, khiến hiệu quả chưa đạt được như kỳ vọng.
Còn tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các văn bản luật hiện hành
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ca – Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên cho biết: Hiện nay, các cơ sở giáo dục đại học đang gặp nhiều khó khăn, trong đó nổi bật là hạn chế về nguồn lực tài chính và thủ tục thanh quyết toán kinh phí nghiên cứu khoa học còn rườm rà, phức tạp.
Bên cạnh đó, áp lực cạnh tranh trong việc thu hút giảng viên và nhà khoa học trình độ cao ngày càng gia tăng, đặc biệt là với các trường ở khu vực trung du, miền núi, khi chính sách đãi ngộ và thu nhập từ nghiên cứu còn chưa đủ hấp dẫn, khiến nhiều giảng viên chuyển hướng sang giảng dạy hoặc làm việc trong khu vực tư nhân.
Mặt khác, cơ sở hạ tầng nghiên cứu còn yếu, thiếu phòng thí nghiệm đạt chuẩn và trung tâm nghiên cứu chuyên sâu, trong khi hệ sinh thái liên kết giữa nhà trường – doanh nghiệp – địa phương chưa được hình thành rõ nét. Điều này khiến nhiều đề tài vẫn mang tính hàn lâm, thiếu định hướng ứng dụng, và chưa có cơ chế đặt hàng cụ thể để chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.
Tại Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên, hoạt động nghiên cứu đang được triển khai theo nhiều hướng trọng tâm. Trong đó, đáng chú ý là định hướng gắn nghiên cứu với phát triển vùng trung du – miền núi phía Bắc, phát triển các lĩnh vực mũi nhọn như toán học, công nghệ, vật liệu, môi trường và văn hóa các dân tộc.
Đồng thời, nhà trường chú trọng đẩy mạnh nghiên cứu liên ngành, liên kết với doanh nghiệp và địa phương, hướng tới quốc tế hóa, công bố quốc tế chất lượng cao, và phát triển lực lượng nghiên cứu trẻ gắn liền với đào tạo.
Đánh giá từ góc nhìn quản lý thực tiễn và triển khai hoạt động nghiên cứu tại đơn vị, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ca cho rằng, môi trường pháp lý hiện nay có tiến bộ nhưng chưa thực sự thông thoáng đối với người làm khoa học. Đồng thời, cơ chế tài chính còn nặng tính hành chính. Thủ tục phê duyệt, nghiệm thu đề tài, thanh toán tài chính vẫn mang tính "xin – cho", phức tạp, rườm rà và chưa thực sự linh hoạt.
Chưa kể đãi ngộ cho đội ngũ nghiên cứu chưa tương xứng, khó tạo động lực để gắn bó lâu dài. Thiếu cơ chế đặt hàng nghiên cứu thực chất từ doanh nghiệp hoặc địa phương.
Đặc biệt, việc thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu vẫn chưa được quy định rõ ràng, dẫn đến tình trạng "nghiên cứu xong để đó".

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ca – Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên. Ảnh: NVCC
Đồng quan điểm, Phó giáo sư, Tiến sĩ Mai Văn Chung - Trưởng phòng Khoa học và Hợp tác Quốc tế, Trường Đại học Vinh cũng cho rằng, mặc dù hiện nay Việt Nam đã xây dựng được hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục, điển hình như Luật Khoa học và Công nghệ (nay là Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo), Luật Giáo dục đại học, Luật Sở hữu trí tuệ…. thế nhưng hiệu lực thực thi còn chưa cao, chưa gắn với thực tiễn và đang có sự chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các văn bản.
Bên cạnh đó, một số quy định vẫn thiếu tính thực tiễn, khó áp dụng tại trường đại học. Ví dụ, quy định về định mức chi, định mức giờ nghiên cứu, cơ chế thưởng công bố… rồi cơ chế tài chính còn nặng tính hành chính khi thủ tục phê duyệt nhiệm vụ, thanh quyết toán còn rườm rà.
Thứ hai, mặc dù chính sách hỗ trợ nghiên cứu khoa học đã được chú trọng khi có chính sách ưu tiên phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, đầu tư phòng thí nghiệm trọng điểm, hay khuyến khích công bố quốc tế, nghiên cứu ứng dụng và thương mại hóa kết quả…..nhưng mức thu nhập, cơ hội nghề nghiệp và môi trường làm việc cho nhà nghiên cứu còn hạn chế, chưa tạo động lực bền vững để giữ chân và phát triển nhân tài.
Trên thực tế, việc liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn chưa thật sự hiệu quả. Nhiều nghiên cứu chưa gắn kết hiệu quả với doanh nghiệp, thị trường, dẫn đến khó khăn trong chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Đặc biệt, các cơ chế hiện hành thiếu tính liên hoạt, chưa đủ sức khuyến khích đổi mới sáng tạo. Việc áp dụng các cơ chế thí điểm, ưu đãi đặc thù còn hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng của các trường đại học trong nghiên cứu.
Đối với những rào cản đang cản trở sự phát triển nghiên cứu mang tính dài hạn và thực chất trong cơ sở giáo dục đại học, thầy Chung cho rằng các chính sách hiện nay vẫn thiên về nhiệm vụ ngắn hạn, kết quả định lượng (báo cáo, sản phẩm…), chưa khuyến khích được nghiên cứu nền tảng, chuỗi nghiên cứu chuyên sâu kéo dài nhiều năm. Chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học chưa sát với thực tế, chưa tạo động lực bền vững cho nhà khoa học.
Chưa kể quy trình xét duyệt đề tài, quản lý tài chính và báo cáo nghiên cứu còn rườm rà, gây áp lực và tốn nhiều thời gian cho nhà khoa học, làm giảm thời gian và tâm huyết dành cho nghiên cứu thực chất. Vấn đề quyền sở hữu trí tuệ, quyền thương mại hóa kết quả nghiên cứu còn nhiều vướng mắc, làm giảm động lực nghiên cứu và ứng dụng.
Về nhân lực, đội ngũ nghiên cứu còn hạn chế về số lượng và chất lượng, thiếu chính sách thu hút, giữ chân nhà khoa học giỏi, giảng viên bị áp lực giảng dạy lớn, ít thời gian cho nghiên cứu chuyên sâu.
Về cơ chế đầu tư và cấp phát kinh phí còn chậm trễ, thiếu linh hoạt, gây gián đoạn tiến độ nghiên cứu dài hạn. Việc huy động vốn từ doanh nghiệp và khu vực tư nhân chưa hiệu quả do thiếu chính sách ưu đãi và môi trường pháp lý chưa minh bạch, linh hoạt.
Ngoài ra, cơ sở vật chất nghiên cứu nhiều nơi còn lạc hậu, thiếu trang thiết bị đạt chuẩn, cơ sở dữ liệu phân tán và hạ tầng số yếu. Mô hình viện/trung tâm nghiên cứu chuyên sâu chưa được chú trọng.
Bên cạnh đó văn hóa nghiên cứu cũng là một thách thức khi áp lực công bố khiến nhiều đề tài mang tính đối phó, thiếu chiều sâu. Hợp tác nghiên cứu còn rời rạc, chưa gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp và địa phương, dẫn đến hạn chế trong ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Hiện nay, việc liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn chưa thật sự hiệu quả. Ảnh: Đào Hiền
Cần có thêm cơ chế để các sản phẩm nghiên cứu đi sâu vào thực tiễn
Để xây dựng một môi trường nghiên cứu khoa học bền vững trong các cơ sở giáo dục đại học, việc đầu tư đúng hướng và đồng bộ các yếu tố nền tảng là hết sức cần thiết. Điều này không chỉ tạo động lực cho giảng viên, nhà khoa học mà còn góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ca, con người là trung tâm của mọi hoạt động nghiên cứu. Do đó, cần ưu tiên thu hút, bồi dưỡng và giữ chân giảng viên, nhà khoa học có năng lực, đặc biệt là những người trẻ có tiềm năng. Xây dựng cơ chế đãi ngộ công bằng, theo năng lực và kết quả, tránh thực hiện cào bằng.
Đồng thời, nên ưu tiên phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, ổn định, có lộ trình dài hạn, định hướng rõ ràng. Khuyến khích nghiên cứu liên ngành, kết hợp giữa khoa học tự nhiên – xã hội – công nghệ để giải quyết các vấn đề phức hợp. Liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu – đào tạo – chuyển giao để tạo ra chu trình khép kín trong trường.
Bên cạnh đó, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên cũng nhấn mạnh việc cải tiến cơ chế quản lý đề tài khoa học theo hướng khoán sản phẩm, minh bạch, đơn giản hóa thủ tục. Xây dựng quỹ hỗ trợ nghiên cứu nội bộ, hỗ trợ kinh phí ban đầu cho ý tưởng mới, đặc biệt là từ sinh viên và giảng viên trẻ.
Theo quan điểm của thầy, các đơn vị nên tích cực đầu tư có trọng tâm vào các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng học thông minh, thiết bị phân tích hiện đại. Kết nối doanh nghiệp, địa phương và quốc tế để mở rộng không gian nghiên cứu, cũng như hình thành mạng lưới đối tác học thuật, đồng hướng dẫn nghiên cứu sinh, trao đổi học thuật xuyên quốc gia.
Mặt khác, cần tập trung vào nghiên cứu ứng dụng – đặt hàng – chuyển giao, hướng tới giải pháp thực tiễn, có đầu ra rõ ràng.
Để các sản phẩm nghiên cứu không chỉ có giá trị học thuật mà còn phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế – xã hội, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ca kiến nghị thực hiện giải pháp định hướng rõ từ đầu mỗi đề tài. Theo đó, ngoài công bố khoa học, phải xác định vấn đề thực tiễn mà nghiên cứu đang giải quyết, sản phẩm cụ thể là gì, có thể ứng dụng ở đâu. Khuyến khích giảng viên, nhóm nghiên cứu bám sát nhu cầu của địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng để lựa chọn đề tài.
Đồng thời tạo cơ chế để doanh nghiệp và địa phương cùng tham gia vào quá trình xây dựng – triển khai – nghiệm thu đề tài. Nhà trường cần có bộ phận chuyên trách về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đăng ký sáng chế, mô hình hữu ích, thương hiệu...
Cuối cùng, tạo cơ chế khuyến khích giảng viên phát triển sản phẩm khởi nghiệp, spin-off hoặc hợp tác sản xuất thử nghiệm. Kết nối với các chương trình quốc gia (NATEC, Techfest, STARTUP Vietnam…) để tìm đầu ra cho sản phẩm nghiên cứu.

Cơ sở giáo dục đại học cần tích cực đầu tư có trọng tâm vào các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng học thông minh, thiết bị phân tích hiện đại. Ảnh: website Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên
Còn theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Mai Văn Chung, trong bối cảnh hiện nay, để xây dựng một môi trường nghiên cứu khoa học bền vững, cơ sở giáo dục đại học cần ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là nguồn nhân lực khoa học công nghệ.
Theo đó, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng năng lực nghiên cứu cho giảng viên, sinh viên, xây dựng cơ chế đãi ngộ hấp dẫn để thu hút và giữ chân nhân tài. Đồng thời đầu tư phát triển hạ tầng nghiên cứu hiện đại, thân thiện môi trường, kết hợp với tích hợp hoạt động nghiên cứu – đào tạo – đổi mới sáng tạo trong một mô hình đại học bền vững.
Bên cạnh đó, thầy Chung cũng nhấn mạnh rằng cải cách cơ chế quản trị, đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao tính minh bạch, linh hoạt trong quản lý tài chính là những điều kiện cần thiết để thúc đẩy nghiên cứu khoa học.
“Việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường liên kết với doanh nghiệp nhằm nâng cao tính ứng dụng, cùng với việc xây dựng văn hóa nghiên cứu trách nhiệm, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chấp nhận rủi ro và phát triển các quỹ hỗ trợ nghiên cứu dài hạn sẽ là những yếu tố then chốt giúp nghiên cứu khoa học phát triển thực chất, hiệu quả và bền vững trong các cơ sở giáo dục đại học”, Phó giáo sư, Tiến sĩ Mai Văn Chung nêu quan điểm.
Để các sản phẩm nghiên cứu tại cơ sở giáo dục đại học không chỉ mang giá trị học thuật mà còn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, thầy Chung cho rằng cần định hướng lại chiến lược nghiên cứu theo hướng ứng dụng, gắn với giải quyết các vấn đề thực tiễn của địa phương, ngành và doanh nghiệp. Các trường cần tích hợp các lĩnh vực khoa học ưu tiên như chuyển đổi số, nông nghiệp thông minh, năng lượng tái tạo, y tế cộng đồng... vào các chương trình nghiên cứu trọng điểm, có mục tiêu rõ ràng về sản phẩm và công nghệ.
Đồng thời, cần đổi mới chương trình đào tạo, nâng cao năng lực nghiên cứu, chuyển giao, lồng ghép kiến thức về đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, sở hữu trí tuệ vào giảng dạy và tổ chức các hoạt động hỗ trợ kỹ năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
“Việc phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong trường, vận hành hiệu quả mô hình hợp tác “3 Nhà” (Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp) sẽ góp phần tăng tính ứng dụng và thương mại hóa”, thầy Chung nhấn mạnh.
Các cơ sở giáo dục đại học cần tăng cường liên kết doanh nghiệp từ khâu đề xuất đề tài đến triển khai và ứng dụng, xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm R&D dùng chung, tạo điều kiện để giảng viên, nhóm nghiên cứu tham gia các dự án thực tiễn. Và cần rà soát, hoàn thiện chính sách liên quan đến sở hữu trí tuệ, tài sản công nghệ, thúc đẩy các hình thức thương mại hóa như cấp phép sáng chế, thành lập doanh nghiệp khởi nguồn từ nghiên cứu (spin-off/start-up), hợp tác theo hợp đồng nghiên cứu hoặc liên doanh phát triển sản phẩm. Việc tham gia hiệu quả vào các mạng lưới, dự án nghiên cứu và chương trình hợp tác quốc tế cũng sẽ giúp nâng cao năng lực ứng dụng.
Cuối cùng, thầy Chung cho rằng, ứng dụng công nghệ số đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng quy mô và tác động của nghiên cứu thông qua phát triển nền tảng chia sẻ dữ liệu, học liệu mở, áp dụng AI, IoT, blockchain, dữ liệu lớn... vào quá trình nghiên cứu và thương mại hóa sản phẩm số. Góp phần lan tỏa kết quả nghiên cứu ra cộng đồng và xã hội.