Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) sẽ khắc phục những bất cập trong triển khai cơ chế, chính sách
Phát biểu tại phiên thảo luận tại hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi), ĐBQH Nguyễn Phi Thường bày tỏ sự nhất trí cao khi nội dung dự thảo luật lần này đã được nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý, làm rõ khá đầy đủ các ý kiến thảo luận, tham gia tại Kỳ họp thứ Sáu.
Tháo bỏ những rào cản khi triển khai, thi hành
Góp ý làm rõ thêm một số nội dung trong dự thảo luật, ĐBQH Nguyễn Phi Thường (Hà Nội) nhấn mạnh: Thứ nhất, về áp dụng Luật Thủ đô tại Điều 4, trong thực tiễn thời gian vừa qua khi triển khai cụ thể hóa các cơ chế, chính sách được định hướng quy định trong Luật Thủ đô năm 2012 có nhiều nội dung vướng các quy định pháp luật khác dẫn đến không mang tính khả thi; mất đi tính đặc thù vượt trội cần thiết và không thể triển khai được. Vấn đề này cũng đang là khó khăn, vướng mắc đối với TP. Hồ Chí Minh khi tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 98/2023/QH15 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố và nguyên nhân là do chưa có quy định hướng dẫn cụ thể khi triển khai áp dụng.
Theo dẫn chứng của đại biểu, khi Luật Thủ đô năm 2012 được thông qua, Bí thư Thành ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH thành phố lúc đó là ông Phạm Quang Nghị đã rất kiên quyết, kiên trì bảo vệ điều khoản liên quan đến điều kiện cư trú để làm giảm gia tăng dân số cơ học. Đây được xem là ưu điểm vượt trội nhưng sau này Luật Cư trú và các nghị định hướng dẫn gần như không còn thể hiện điều này trong Luật Thủ đô. "Mỗi năm, dân số Thủ đô ghi nhận gia tăng cơ học khoảng 200.000 người, tạo sức ép vô cùng to lớn lên kết cấu hạ tầng của thành phố. Từ đây, ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, quá tải trường học làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống", ĐBQH Nguyễn Phi Thường nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, đại biểu cũng thống nhất rất cao nội dung quy định tại Điều 4 về áp dụng Luật Thủ đô tại dự thảo Luật sửa đổi lần này, đặc biệt là nội dung quy định tại khoản 3. Bởi, các nội dung đề cập có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giải quyết, tháo gỡ kịp thời các vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn đã kéo dài và được xác định là một trong những điều kiện tiên quyết, bảo đảm thực hiện Luật Thủ đô (sửa đổi) có hiệu quả, thực sự là những chính sách vượt trội, khả thi khi tổ chức triển khai thực hiện.
Cụ thể, tại khoản 1 Điều 4 áp dụng đối với trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Thủ đô với các luật, nghị quyết Quốc hội về cùng một vấn đề mà chưa bao quát hết trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết nội dung của Luật Thủ đô hay văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để thực hiện thẩm quyền được giao trong Luật Thủ đô. Vì vậy, theo ĐBQH, quy định tại khoản 3 Điều 4 là hết sức cần thiết, bởi Luật Thủ đô là một đạo luật có tính chất đặc biệt, đặc thù, phân quyền mạnh mẽ cho một cấp chính quyền địa phương là chính quyền TP. Hà Nội được thực hiện một số thẩm quyền mà các luật hiện hành khác đang giao cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hay các cơ quan khác ở Trung ương thực hiện.
Gỡ vướng trong thực hiện hợp đồng xây dựng chuyển giao
Cũng theo ĐBQH Nguyễn Phi Thường, trên thực tế không thể tránh khỏi có trường hợp cùng một vấn đề sẽ có cả quy định trong các văn bản quy định chi tiết hay thực hiện thẩm quyền Luật Thủ đô giao và quy định trong các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hay các bộ chuyên ngành. Do đó, trong trường hợp này, cần xác định rõ văn bản được ban hành theo quy định của Luật Thủ đô được áp dụng để minh bạch hóa, tạo sự yên tâm cho các chủ thể trong quá trình thi hành pháp luật.
"Quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 4 mới chỉ xử lý được các trường hợp có quy định khác giữa Luật Thủ đô với các luật khác mà chưa thể hiện rõ nguyên tắc áp dụng đối với các văn bản dưới luật", ĐBQH Nguyễn Phi Thường thông tin thêm.
Góp ý để hoàn thiện dự án luật, ĐBQH Nguyễn Phi Thường đã đề xuất bổ sung 2 nội dung là những vướng mắc diễn ra trong thực tế. Đó là về thực hiện hợp đồng xây dựng chuyển giao, nội dung quy định tại Điều 40 của dự thảo hợp đồng BT (hợp đồng xây dựng - chuyển giao) thanh toán bằng quỹ đất cho nhà đầu tư đã được quy định tại khoản 5 Điều 40 của dự thảo. Tuy nhiên, với 2 quy định là quỹ đất dùng để thanh toán phải là vùng phụ cận liền kề với dự án đầu tư theo hợp đồng BT chịu ảnh hưởng trực tiếp các tác động công trình khi dự án đầu tư hoàn thành và nhà đầu tư chỉ được cấp phép triển khai dự án đối ứng có sử dụng đất khi dự án đầu tư đã hoàn thành và bàn giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đại biểu đề nghị xem xét nghiên cứu cập nhật, chỉnh lý nội dung này theo hướng: Thứ nhất, ưu tiên sử dụng quỹ đất thuộc vùng phụ cận liền kề với dự án đầu tư theo hợp đồng BT chịu ảnh hưởng trực tiếp các tác động công trình khi dự án đầu tư hoàn thành để thanh toán cho nhà đầu tư.
Thứ hai, nhà đầu tư chỉ được cấp phép triển khai dự án đối ứng có sử dụng đất khi dự án đầu tư theo hợp đồng BT đã được khởi công và đầu tư hoàn thành tối thiểu 50% giá trị hợp đồng, trong mọi trường hợp dự án đối ứng chỉ được khai thác, sử dụng bao gồm cả kinh doanh khai thác khi dự án đầu tư theo hợp đồng BT đã hoàn thành và bàn giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.