Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học: Đồng bộ giải pháp
Các trường sư phạm cùng góp ý dự thảo Đề án 'Từng bước đưa Tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn 2045'.

Chủ trì hội thảo (từ trái sang phải ảnh): Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội Nguyễn Đức Sơn; Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng; Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TP.Hồ Chí Minh Huỳnh Văn Sơn.
Sáng 23/4, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội tổ chức Hội thảo lấy ý kiến xây dựng Đề án "Từng bước đưa Tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn 2045”.
Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng chủ trì hội thảo. Cùng tham dự có đại diện lãnh đạo của 17 trường đại học sư phạm, đại học ngoại ngữ có đào tạo giáo viên dạy tiếng Anh; giảng viên dạy chuyên ngành bằng tiếng Anh; đại diện các trường mầm non và phổ thông và một số cơ quan quốc tế như Hội đồng Anh, Văn phòng tiếng Anh khu vực (Đại sứ quán Mỹ- RELO).
Phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên có ý nghĩa quyết định
Khai mạc hội thảo, Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng cho biết: Ngày 12/8/2024, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 91- KL/TW, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo (Kết luận 91). Một trong những nội dung quan trọng trong Kết luận 91 là “từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học".
Đầu tháng 10/2024, Bộ GD&ĐT đã phối hợp với Sở GD&ĐT TP.Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo bàn giải pháp thực hiện mục tiêu trên, với nhận thức đây là cơ lớn cho toàn ngành Giáo dục nói chung và người dạy, người học tiếng Anh nói riêng.
Sau đó, Bộ GD&DT đã tham mưu Chính phủ ban hành đề án cấp quốc gia với các nội dung cụ thể, rõ mục tiêu, lộ trình thời gian thực hiện. Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với đề xuất của Bộ và yêu cầu xây dựng đề án này trình Chính phủ trong quý 2.
Với tinh thần triển khai tích cực, khẩn trương, Ban soạn thảo đã xây dựng dự thảo 2 là tổ chức một số hội thảo lấy ý kiến góp ý hoàn thiện. Thứ trưởng bày tỏ mong muốn, các chuyên gia, nhà giáo, với tâm huyết và kinh nghiệm tham góp ý kiến với tinh thần thẳng thắn, khoa học, xây dựng, để xây dựng Đề án có chất lượng tốt nhất và khả thi.

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng khai mạc hội thảo.
Ý kiến đại diện các trường có đào tạo giáo viên tại hội thảo đều khẳng định vai trò trọng tâm, chiến lược của việc phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên tiếng Anh và giảng dạy các môn học khác bằng tiếng Anh.
PGS.TS Nguyễn Đức Sơn, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho biết: Từ năm 2013 đến nay, dưới sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, cùng với sự hỗ trợ thiết thực từ Đề án Ngoại ngữ Quốc gia, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã triển khai nhiều chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên dạy bằng tiếng Anh, phát triển được hệ thống chương trình, học liệu, đội ngũ và tuyển sinh, đào tạo các ngành: Sư phạm Toán học (dạy bằng tiếng Anh), Giáo dục Tiểu học - Sư phạm Tiếng Anh, Giáo dục Mầm non - Sư phạm Tiếng Anh.
Từ năm 2014, nhà trường mở rộng sang Sư phạm Vật lí, Sư phạm Hóa học, Sư phạm Sinh học và Sư phạm Tin học (dạy các môn này bằng tiếng Anh).
Từ thực tiễn triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy bằng tiếng Anh trong hơn một thập kỷ qua, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội nhận thấy, việc phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên giảng dạy các môn học, chuyên ngành bằng tiếng Anh cần được xác định là một trong những trọng tâm chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện thành công các mục tiêu của Đề án.
“Với tinh thần trách nhiệm cao và vai trò tiên phong, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cam kết đồng hành cùng Bộ GD&ĐT, sẵn sàng chia sẻ nguồn lực, đóng góp chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn để triển khai hiệu quả các nội dung của Đề án trong thời gian tới”, PGS.TS Nguyễn Đức Sơn khẳng định.

Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội Nguyễn Đức Sơn phát biểu tại hội thảo.
Thay mặt Trường ĐH Sư phạm TP.Hồ Chí Minh góp ý cho dự thảo, Phó Hiệu trưởng Bùi Thị Quỳnh Ngọc nhận định: Dự thảo Đề án lần này thể hiện sự đầu tư công phu, có tầm nhìn dài hạn và đặc biệt là cách tiếp cận mới - không chỉ đơn thuần là dạy tiếng Anh, mà là xây dựng một hệ sinh thái sử dụng tiếng Anh trong nhà trường.
Bà Bùi Thị Quỳnh Ngọc bày tỏ rất đồng tình với 3 điểm mạnh nổi bật của dự thảo Đề án. Thứ nhất, lộ trình triển khai rõ ràng, chia theo từng giai đoạn đến năm 2035 và tầm nhìn 2045, giúp các địa phương, nhà trường có thời gian chuẩn bị, thích ứng.
Thứ hai, Đề án có tư duy hiện đại khi ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo trong dạy và học tiếng Anh - đây sẽ là đòn bẩy quan trọng để thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền.
Thứ ba, tinh thần xã hội hóa rất rõ nét - khuyến khích sự tham gia của các tổ chức giáo dục quốc tế, các trường tư thục, các doanh nghiệp, nhằm tăng thêm nguồn lực cho triển khai.
Để Đề án thực sự khả thi, bà Bùi Thị Quỳnh Ngọc góp ý 6 nhóm nội dung cần hoàn thiện, liên quan đến khái niệm “ngôn ngữ thứ hai”; tiêu chí; cơ chế giám sát học thuật độc lập; đào tạo cán bộ quản lý; thí điểm triển khai trước khi nhân rộng và xây dựng nền tảng học liệu số quốc gia dùng chung.
Theo đó, Đề án nên quy định rõ việc thành lập một Hội đồng chuyên gia quốc gia, gồm các nhà ngôn ngữ học, sư phạm, khảo thí và đại diện địa phương để tư vấn chuyên môn, giám sát thực hiện và công bố báo cáo định kỳ. Đây là thiết chế cần thiết để đảm bảo tính khoa học và cập nhật kịp thời trong suốt quá trình thực hiện Đề án kéo dài hơn 20 năm.
Bên cạnh bồi dưỡng giáo viên, cần thiết kế chương trình riêng cho hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn về xây dựng kế hoạch phát triển nhà trường theo hướng song ngữ, tổ chức hoạt động chuyên môn tích hợp và đánh giá nội bộ bằng tiếng Anh. Việc này sẽ tạo điều kiện chuyển hóa tư duy quản lý và lan tỏa.
Để kiểm nghiệm tính khả thi, nên chọn một số địa phương và nhóm trường làm mô hình điểm triển khai cả 3 mức độ trong 5 năm đầu. Qua đó có thể rút kinh nghiệm và hoàn thiện bộ tiêu chí trước khi mở rộng trên phạm vi toàn quốc.
Bà Bùi Thị Quỳnh Ngọc cũng cho rằng, Đề án nên hướng đến phát triển một hệ thống học liệu số toàn quốc, tích hợp AI, có khả năng phân tích năng lực người học và lộ trình học cá nhân hóa. Điều này vừa nâng cao chất lượng, vừa tiết kiệm chi phí, tránh tình trạng manh mún giữa các địa phương.
“Với vai trò là một trong hai cơ sở đào tạo giáo viên lớn nhất cả nước, chúng tôi cam kết tiếp tục đồng hành và đóng góp tích cực cho Đề án. Trường đã xây dựng chương trình Sư phạm Toán, Vật lí, Hóa học, công nghệ thông tin, Khoa học tự nhiên bằng tiếng Anh từ năm 2022. Đây là chương trình song ngữ với 50% khối lượng học phần chuyên ngành được giảng dạy bằng tiếng Anh. Bên cạnh đó, Trường đã triển khai các nhiệm vụ cốt lõi nhằm đón đầu việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo viên phổ thông”, bà Bùi Thị Quỳnh Ngọc chia sẻ.

Dự hội thảo có đại diện lãnh đạo 17 trường đại học sư phạm, đại học ngoại ngữ có đào tạo giáo viên dạy tiếng Anh; giáo viên dạy chuyên ngành bằng tiếng Anh các trường mầm non và phổ thông; đại diện của các cơ quan quốc tế
Quan tâm tính khả thi
Với góc nhìn thực tiễn trường phổ thông, ông Nguyễn Hùng Tuân - Phó phòng Quản lý và phát triển chương trình - Hệ thống Trường liên cấp Ban Mai (BMS) đề cập đến việc tính toán thời lượng tiết từng cấp học, ứng với từng mức độ để đảm bảo tính khả thi. Đồng thời, quan tâm giải pháp bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ giáo viên, nhất là những thầy cô không phải giáo viên dạy tiếng Anh, cũng như có lộ trình với giáo viên lớn tuổi.
Khẳng định ý nghĩa quan trọng của đề án đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học, đại diện Trường CĐ Sư phạm Mẫu giáo Trung ương chia sẻ một số khó khăn từ thực tiễn giáo dục mầm non. Theo đó, tài liệu, học liệu hướng dẫn dành cho giáo viên rất hạn chế; các phương tiện, đồ dùng, học liệu để trẻ làm quen với tiếng Anh cũng vậy. Đây cũng là điều cần được quan tâm bổ sung, nhất là khi triển khai đề án quốc gia đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.

Hội thảo nhận được nhiều ý kiến góp ý từ các cơ sở giáo dục đại học và phổ thông.
Khẳng định điều quan trọng nhất là tính khả thi, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm - ĐH Đà Nẵng Võ Văn Minh cho rằng, phân kỳ 5 năm đầu tiên cần tập trung đầu tư trọng tâm, trọng điểm vào trường đào tạo giáo viên và cơ sở giáo dục cân đối theo vùng miền; sau đó nhân rộng. Hai việc được ông Võ Văn Minh nhấn mạnh cần tập trung là đào tạo, bồi dưỡng giảng viên sư phạm, giáo viên mầm non và phổ thông; đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng số, học liệu, trong đó gợi ý có thể xây dựng bộ sách giáo khoa song ngữ.
Phó Hiệu trưởng Trường THCS-THPT Nguyễn Tất Thành (Hà Nội) Lê Thị Mai Oanh cũng quan tâm đến tính khả thi của đề án và gợi ý nên dự báo số giáo viên cần đào tạo trong lộ trình để điều chỉnh đặt hàng đào tạo giáo viên, cũng như giao chỉ tiêu đào tạo giáo viên cho trường sư phạm.
Đại diện Hội đồng Anh góp ý cho dự thảo đề án đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của các chính sách tạo động lực cho cả thầy và trò; đồng thời, chỉ tiêu đưa ra không chỉ số lượng mà nên xác định rõ hơn, chi tiết hơn yêu cầu về chất lượng.

Đại diện Hội đồng Anh phát biểu.
Kết luận hội thảo, Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng đánh giá cao chất lượng các ý kiến góp ý và đề nghị Ban soạn thảo tiếp thu tối đa, trên cơ sở khoa học, thực tiễn, khả thi.
Chia sẻ quá trình xây dựng đề án hết sức nghiêm túc, công phu, khoa học, Thứ trưởng đồng thời lưu ý: Chúng ta xây dựng nguyên tắc, tiêu chí đảm bảo tính khả thi, nhưng cũng phải hướng tới chuẩn quốc gia, quốc tế, không phải “gọt chân cho vừa giày”. Tiêu chí nguồn lực theo hướng phấn đấu, không phải theo hướng đạt được nhanh hay chậm…
Như vậy, phải đồng bộ các giải pháp; từ cơ chế chính sách, nguồn nhân lực, đến ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, giải quyết vấn đề về học liệu, khoảng cách vùng miền, thiếu giáo viên… Trong đó, yếu tố con người được Thứ trưởng đặc biệt nhấn mạnh.
Kế hoạch thực hiện đề án phải xác định các nhiệm vụ: Xây dựng được chính sách cho người dạy, người học; đào tạo và bồi dưỡng giáo viên; xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị; chương trình, giáo trình, học liệu; xây dựng các tiêu chí công nhận từng mức độ…
Thứ trưởng đề nghị các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt các trường có đào tạo tiếng Anh, sư phạm tiếng Anh chủ động xây dựng chương trình, chuẩn bị đội ngũ, cơ sở vật chất theo năng lực của mình để đào tạo sinh viên; chủ động xây dựng chương trình, cách thức, phương pháp bồi dưỡng giáo viên; phối hợp với các sở GD&ĐT; tham mưu Bộ GD&ĐT trong đề xuất chính sách…