FinTech Việt Nam: Tiềm năng khổng lồ và những rào cản pháp lý cần tháo gỡ

Từ những con số tăng trưởng ngoạn mục đến xu hướng thanh toán không tiền mặt bùng nổ, FinTech đang định hình lại bức tranh tài chính tại Việt Nam. Đây là một 'mảnh đất màu mỡ' cho đổi mới, nhưng cũng đầy rẫy những 'bẫy' rủi ro và thách thức pháp lý.

Quang cảnh Hội thảo khoa học Công nghệ tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Quang cảnh Hội thảo khoa học Công nghệ tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Ngày 5/6/2025, Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học: Công nghệ tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp.

Tiềm năng bứt phá FinTech Việt Nam

Việt Nam đang trải qua một cuộc cách mạng tài chính sâu sắc, được thúc đẩy bởi sự bùng nổ của công nghệ tài chính (FinTech). Theo TS. Hoàng Thị Ngọc Thủy - Phó chủ nhiệm phụ trách Khoa Tài chính (Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội), sự phát triển kinh tế bền vững, cùng với tầng lớp trung lưu đang lớn mạnh, đã tạo ra một môi trường lý tưởng cho sự đổi mới trong lĩnh vực này.

Thị trường FinTech Việt Nam đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng vượt bậc trong những năm gần đây. Giá trị giao dịch FinTech tăng mạnh từ 4,4 tỷ USD năm 2017 lên 7,8 tỷ USD năm 2020 (Solidiance), và tiếp tục đạt 27,2 tỷ USD năm 2023, dự kiến 31,6 tỷ USD vào năm 2024 (BDA Partners). Số lượng công ty FinTech cũng tăng từ 40 năm 2013 lên hơn 260 công ty vào cuối năm 2022.

Dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy sự chuyển dịch mạnh mẽ sang thanh toán không dùng tiền mặt. Trong 6 tháng đầu năm 2024, giao dịch không tiền mặt tăng 58,23% về số lượng và 35,01% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Đáng chú ý, giao dịch qua QR Code tăng tới 104,2% về số lượng và 99,5% về giá trị.

Theo khảo sát do Visa thực hiện, 65% khách hàng Việt Nam mang ít tiền mặt trong người hơn thẻ, 76% khách hàng sử dụng ví điện tử và người dùng thẻ nhiều hơn người dùng tiền mặt (chiếm 82%). Ít nhất mỗi tuần một lần, hơn 80% số người được hỏi sử dụng thẻ, thanh toán bằng mã QR và ví điện tử.

Với ưu thế về đổi mới sáng tạo và khả năng ứng dụng công nghệ linh hoạt, bà Ngọc Thủy cho rằng, FinTech không chỉ giúp giảm chi phí cho doanh nghiệp, mà còn mở rộng khả năng tiếp cận nguồn tài chính cho nhiều đối tượng khách hàng như tiếp cận nhanh chóng.

Công nghệ cho phép dịch vụ tài chính đến được mọi người ở bất kỳ nơi đâu và tức thì với chi phí thấp. FinTech cung cấp các dịch vụ tài chính hiệu quả hơn, giúp dịch vụ trở nên phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng, bảo đảm an toàn. Sử dụng FinTech giúp mọi người dần loại bỏ sự phụ thuộc vào tiền mặt, tạo ra môi trường tài chính an toàn hơn và minh bạch hơn cho cá nhân, doanh nghiệp và cả chính phủ.

Đòn bẩy nào cho FinTech Việt?

Tuy vậy, FinTech vẫn phải đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức như rủi ro an ninh mạng tấn công, trộm cắp dữ liệu cá nhân. Cơ sở hạ tầng mạng chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Yếu tố con người là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc phát triển thị trường FinTech, nơi đòi hỏi nguồn nhân lực có kiến thức chuyên môn cao, nắm vững về công nghệ.

TS. Hoàng Thị Ngọc Thủy - Phó chủ nhiệm phụ trách Khoa Tài chính (Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội) phát biểu tại hội thảo

TS. Hoàng Thị Ngọc Thủy - Phó chủ nhiệm phụ trách Khoa Tài chính (Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội) phát biểu tại hội thảo

Theo bà Ngọc Thủy, một số nền tảng đầu tư tài chính số đã thiếu tính minh bạch như cố tình tránh đề cập đến các rủi ro của hoạt động đầu tư tài chính đối với người dùng cuối dẫn đến các quyết định đầu tư thiếu cân nhắc và dẫn đến thua lỗ lớn. Ngoài ra một số nền tảng đầu tư lợi dụng giao dịch bằng cơ chế trò chơi (gamification) khiến người dùng bị thao túng tâm lý, tăng tần suất giao dịch và phải trả phí nhiều hơn.

Cùng quan điểm trên, TS. Phạm Thị Hạnh - Trưởng phòng Nghiên cứu Tài chính Ngân hàng, Viện Nghiên cứu và Đào tạo BIDV chia sẻ, khung pháp lý về các công nghệ tài chính và công ty FinTech tại Việt Nam vẫn ở trong giai đoạn sơ khai.

Việt Nam đang sử dụng cách tiếp cận chờ đợi và quan sát để quản lý lĩnh vực FinTech, khi các cơ quan quản lý chủ yếu vẫn đang thực hiện nghiên cứu thị trường và quan sát, học hỏi kinh nghiệm từ các thị trường phát triển hơn.

Theo TS. Phạm Thị Hạnh, ngoài mảng thanh toán thì hoạt động quản lý FinTech tại Việt Nam còn nhiều hạn chế. Tuy đã có một số quy định pháp lý liên quan đến hoạt động FinTech nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật, như Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin, Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/2/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính, Nghị định số 35/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng, Thông tư số 18/2018/TT-NHNN ngày 21/8/2018 về an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng..., nhưng nhìn chung thì hành lang pháp lý vẫn còn nhiều thiếu sót.

"FinTech tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức về mặt pháp lý và thể chế. Hiện tại, chưa có một khung pháp lý cụ thể hay cơ chế quản lý rõ ràng cho hoạt động FinTech. Điều này dẫn đến sự chậm trễ trong việc ứng dụng công nghệ tiên tiến của các định chế tài chính trong nước, đồng thời một số công nghệ còn bị cấm do chưa phù hợp với điều kiện thị trường", TS. Phạm Thị Hạnh cho biết.

Tuy nhiên, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 22/12/2024 về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã mang đến nhiều giải pháp quan trọng. Các giải pháp này, đặc biệt là việc hoàn thiện thể chế và tăng cường đầu tư hạ tầng, được kỳ vọng sẽ tạo động lực lớn cho sự phát triển của FinTech, vốn đang gặp khó khăn về thể chế và quan điểm quản lý.

Theo TS. Phạm Thị Hạnh, Việt Nam cần thay đổi cách tiếp cận từ "chờ đợi và quan sát" sang phương pháp "thử nghiệm và học hỏi" như kinh nghiệm của Philippines và Kenya. Cách tiếp cận này cho phép các cơ quan quản lý kiểm soát rủi ro thông qua việc triển khai ứng dụng FinTech trong phạm vi hẹp, đồng thời thu thập dữ liệu và tìm ra phương án quản lý tối ưu.

Hồng Hạnh

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/fintech-viet-nam-tiem-nang-khong-lo-va-nhung-rao-can-phap-ly-can-thao-go-165344.html