Giải pháp đồng bộ triển khai thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên
Sau gần thập kỷ, hơn 200.000 giáo viên được thăng hạng CDNN, song từ vướng mắc thực tiễn, cần giải pháp đồng bộ để bảo đảm quyền lợi nhà giáo.

Dạy học tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 là cần thiết.
Sau gần một thập kỷ triển khai thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên theo các quy định của Chính phủ và Bộ GD&ĐT, đến nay hơn 200.000 giáo viên trên cả nước đã được thăng hạng.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện tại nhiều địa phương vẫn còn không ít khó khăn, vướng mắc, đòi hỏi những giải pháp đồng bộ để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho đội ngũ nhà giáo.
Ông Vũ Minh Đức - Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục (Bộ GD&ĐT) đã có những trao đổi xung quanh nội dung này.
10 năm, gần 220 nghìn giáo viên được thăng hạng
- Ông có thể chia sẻ thông tin về kết quả rà soát việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên của các địa phương đến thời điểm này?
Theo số liệu thống kê của các tỉnh/thành phố, trong giai đoạn từ năm 2016-2025 (tính đến tháng 12/2025), toàn quốc có 226.722 giáo viên mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên đã được thăng hạng chức danh nghề nghiệp. Trong đó, 65.502 giáo viên được thăng hạng từ hạng IV lên hạng III, 153.792 giáo viên được thăng hạng từ hạng III lên hạng II, 7.428 giáo viên được thăng hạng từ hạng II lên hạng I.
Số liệu này bao gồm cả kết quả các kỳ thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên do Bộ GD&ĐT tổ chức (năm 2018 và 2020, đối với hạng II lên hạng I); các kỳ chuyển xếp theo các Thông tư 01,02,03/2021/TT-BGDĐT (trước đây khi tuyển dụng xếp lượng hạng II cũ, khi Thông tư có hiệu lực thì chuyển xếp vào hạng II mới) và các kỳ thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên do địa phương tổ chức theo thẩm quyền (chủ yếu là hạng III lên hạng II).
- Ông đánh giá như thế nào về việc thực hiện quy định liên quan đến thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên tại địa phương trong thời gian qua?
- Công tác thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non và phổ thông giai đoạn 2016-2025 cơ bản đã được địa phương triển khai thực hiện theo các quy định của Chính phủ, Bộ GD&ĐT và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Việc thăng hạng nhằm chuẩn hóa đội ngũ, nâng cao chất lượng chuyên môn, và làm căn cứ thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ.
Một số địa phương đã triển khai công tác thăng hạng tương đối tốt. Ví dụ, tại Nghệ An có tổng số 24.855 giáo viên các cấp được thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên tất cả các hạng. Hà Nội, tổng số 22.769 giáo viên các cấp được thăng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng III lên hạng II. Hải Phòng, tổng số giáo viên được thăng hạng là 19.115 người, trong đó số giáo viên được thăng từ hạng II lên hạng I là 3.090 người. Thanh Hóa đã tổ chức thăng hạng cho 12.777 giáo viên…
Tuy nhiên, công tác thăng hạng chức danh nghề nghiệp ở một số địa phương còn gặp khó khăn do nhiều nguyên nhân. Bên cạnh đó, một số địa phương (cấp huyện, trước tháng 7/2025) chưa tổ chức một kỳ thăng hạng nào.

TS Vũ Minh Đức, Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục, Bộ GD&ĐT.
Nhận diện khó khăn, vướng mắc
- Ông có thể cho biết cụ thể những khó khăn, vướng mắc của công tác thăng hạng giáo viên?
Các khó khăn, vướng mắc trong công tác thăng hạng giáo viên thời gian qua tập trung vào một số nội dung như: bị giới hạn về cơ cấu và chỉ tiêu thăng hạng. Theo đó, Chức danh nghề nghiệp hạng I và tương đương: Tối đa không quá 10%; chức danh nghề nghiệp hạng II và tương đương: Tối đa không quá 50%; chức danh nghề nghiệp hạng III và tương đương trở xuống (nếu có): Tối đa không quá 40%.
Theo báo cáo của nhiều địa phương, tình trạng "đủ điều kiện nhưng không có chỉ tiêu thăng hạng tương ứng" do cơ cấu hạng nêu trên không đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Việc giới hạn tỷ lệ cơ cấu hạng theo quy định dẫn đến việc giáo viên đủ tiêu chuẩn, điều kiện, có thành tích nổi bật nhưng không được xét thăng hạng vì đơn vị đã đủ hoặc vượt tỷ lệ định mức. Điều này làm giảm động lực phấn đấu và thiệt thòi cho giáo viên về chế độ, chính sách tiền lương.
Thứ hai là về thay đổi các quy định của pháp luật liên quan. Giai đoạn 2016-2025, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan có nhiều thay đổi gây khó khăn cho cơ quan quản lý và cơ sở giáo dục trong quá trình triển khai.
Khó khăn thứ 3 liên quan đến phân định thẩm quyền trong tổ chức thăng hạng chức danh nghề nghiệp. Một số địa phương còn có sự chồng chéo trong thẩm quyền xét thăng hạng giữa Thông tư của Bộ GD&ĐT và Quyết định phân cấp của tỉnh.
Thứ 4 là khó khăn liên quan đến tổ chức thực hiện công tác thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên tại địa phương. Năng lực đội ngũ nhân sự tham mưu công tác tổ chức thăng hạng tại một số địa phương còn hạn chế, kinh nghiệm chưa nhiều, quy trình thực hiện chưa bài bản, dẫn tới công tác rà soát, tham mưu triển khai thăng hạng chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời.
Khi phân cấp xuống địa phương, đơn vị đầu mối còn hiểu văn bản chưa thống nhất, dẫn đến việc yêu cầu giáo viên cung cấp các minh chứng không cần thiết, gây khó khăn cho giáo viên (yêu cầu có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học để xác minh năng lực ứng dụng CNTT hoặc năng lực sử dụng ngoại ngữ trong khi Bộ đã có hướng dẫn tại Thông tư về việc giao cho đơn vị sử dụng xác nhận, đánh giá năng lực).
Khối lượng công việc trong giai đoạn mới ngày càng tăng, yêu cầu về chất lượng, tiến độ cao hơn nên công tác thăng hạng chức danh nghề nghiệp cho giáo viên chưa được quan tâm đúng mức.
Việc phân cấp thăng hạng cho cấp xã sau khi sắp xếp đơn vị hành chính gặp khó khăn do đội ngũ công chức cấp xã còn thiếu, không có chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục. Một số địa phương chưa đủ cơ sở để phân định thẩm quyền tổ chức xét thăng hạng đối với viên chức hoặc sau hợp nhất địa phương chưa phân cấp nên Sở GD&ĐT chưa thể tham mưu triển khai thực hiện.
Đối với các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên, do thay đổi đơn vị chủ quản nhiều lần nên công tác xét thăng hạng chưa được quan tâm thực hiện.
Các huyện (cũ) trong cùng tỉnh tổ chức thăng hạng không thống nhất, nhiều huyện trước đây chưa tổ chức xét thăng hạng. Nhiều giáo viên đủ điều kiện nhưng không có đợt thăng hạng nên không có cơ hội để đăng ký dự thi hoặc xét.

Các giải pháp cần triển khai nhằm bảo đảm quyền lợi đội ngũ
- Để tháo gỡ những vướng mắc nêu trên, đồng thời bảo đảm quyền lợi chính đáng của đội ngũ giáo viên, Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục có những đề xuất, giải pháp gì trong thời gian tới?
Sau khi Bộ GD&ĐT gửi UBND các tỉnh Công văn số 7223/BGDĐT-NGCBQLGD, một số địa phương đã thúc đẩy công tác thăng hạng chức danh nghề nghiệp cho giáo viên. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai còn gặp các vướng mắc liên quan đến cơ cấu tỷ lệ hạng chức danh nghề nghiệp; yêu cầu minh chứng về năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và khả năng sử dụng ngoại ngữ trong hoạt động nghề nghiệp; xác định thời gian giữ hạng tương đương…
Để tháo gỡ các vướng mắc cho địa phương và bảo đảm quyền lợi cho đội ngũ giáo viên, ngày 15/12/2025, Bộ GD&ĐT đã ban hành công văn đôn đốc các địa phương khẩn trương hoàn thiện việc bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp cho giáo viên cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên đúng với vị trí việc làm đang đảm nhiệm theo quy định tại Thông tư số 01,02,03,03/2021/TT-BGDĐT, Thông tư số 08/2021/TT-BGDĐT và hướng dẫn của Bộ tại Công văn số 4306/BGDĐT-NGCBQLGD ngày 14/8/2023.
Đồng thời, tiếp tục rà soát, tổ chức thăng hạng chức danh nghề nghiệp cho giảng viên cao đẳng sư phạm, giáo viên, giảng viên giáo dục nghề nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Tiêu chuẩn, điều kiện xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên, giảng viên giáo dục nghề nghiệp thực hiện theo Thông tư số 07/2023/TT-BLĐTBXH được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 10/2024/TT-BLĐTBXH. Tiêu chuẩn, điều kiện xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giảng viên cao đẳng sư phạm thực hiện theo theo Thông tư số 05/2024/TT-BGDĐT.
Nhìn chung, việc triển khai thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên đã mang lại kết quả tích cực, bảo đảm quyền lợi của giáo viên, tạo động lực cho giáo viên tăng cường học hỏi, bồi dưỡng, phấn đấu để đáp ứng tiêu chuẩn hạng cao hơn. Qua đó, đội ngũ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn tăng lên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.












