Giảm nghèo đa chiều: Đề xuất nâng mức hỗ trợ nhà ở, có chiến lược nước sạch
Các đại biểu Quốc hội đề xuất nhiều giải pháp để tạo sinh kế, cải thiện đời sống và nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi.
Sáng ngày 5/12, Quốc hội thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035.
Chương trình đặt mục tiêu đến năm 2030 tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm từ 1-1,5%/năm; phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo đa chiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi giảm xuống dưới 10%; tỷ lệ nghèo đa chiều ở xã nghèo giảm ít nhất 3%/năm.

Đại biểu Nàng Xô Vi. Ảnh: Media Quốc hội
Theo đại biểu Nàng Xô Vi (Đoàn Quảng Ngãi), đây là mục tiêu cốt lõi của Chương trình, với định hướng không chỉ thoát nghèo về thu nhập mà thoát nghèo về năng lực tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin... Đồng thời thể hiện cam kết chính trị mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong chủ trương "không để ai bị bỏ lại phía sau".
Để đạt được mục tiêu trên, đại biểu cho rằng việc hỗ trợ an sinh đơn thuần sẽ không đủ, điều quan trọng là phải tạo sinh kế bền vững, chuyển từ hỗ trợ sang “trao cần câu”, mở rộng việc làm phi nông nghiệp, phát triển kinh tế xanh, du lịch cộng đồng... Cùng với đó là giảm thiếu hụt về giáo dục và dịch vụ y tế.
Với mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu 100% số xã nghèo cả nước thoát khỏi tình trạng nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn; đại biểu Nàng Xô Vi nhận định đây là mục tiêu đi vào trực diện, vào những điểm nghẽn lớn nhất, những vũng lõm phát triển.
“Các xã nghèo và thôn đặc biệt khó khăn thường là nơi hạ tầng yếu, dân cư phân tán, điều kiện tiếp cận dịch vụ công hạn chế và dễ bị tổn thương bởi thiên tai, biến đổi khí hậu. Do đó cần đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên hạ tầng thiết yếu như đường giao thông, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế, internet, thay vì đầu tư dàn trải, manh mún,” đại biểu nói.
Nhận định Chương trình đã đề cập nguyên tắc đầu tư trọng tâm, trọng điểm, hướng tới hiệu quả bền vững là hoàn toàn đúng đắn; đại biểu đề xuất ưu tiên nguồn lực cho giáo dục, y tế, hạ tầng vì đây là nhân tố quyết định giảm nghèo bền vững. “Đồng thời xây dựng công cụ giám sát độc lập, minh bạch, chuyển đổi số trong quản trị để tránh thoát nghèo trên giấy,” đại biểu nêu quan điểm.
Đề xuất nâng mức hỗ trợ nhà ở
Cũng quan tâm đến các mục tiêu cốt lõi của Chương trình, đại biểu Hồ Thị Minh (Đoàn Quảng Trị) cho rằng giai đoạn tới cần tập trung giải quyết các vấn đề mà giai đoạn 1 chưa hoàn thành, đó là về nước sạch, đất ở và đất sản xuất.
Về nước sạch, đại biểu đề nghị Chính phủ cần có chủ trương đầu tư mạnh, không phân tán nhỏ lẻ như khoan giếng, cấp bồn nước, vì như vậy chỉ giải quyết những vấn đề tức thời. Về lâu dài, cần có chiến lược, đầu tư nguồn lực như đầu tư điện lưới quốc gia.
“Những năm gần đây thiên tai bão lũ nhiều nhưng chương trình chưa đưa các dự án riêng biệt như hỗ trợ tái định cư, định canh, sinh kế, ứng phó với biến đổi thiên tai khí hậu tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tôi đề xuất có cơ chế đặc thù là giao quyền cho lãnh đạo địa phương thực hiện các vấn đề cấp bách khắc phục hậu quả thiên tai không cần thông qua Luật Đầu tư công như hiện nay,” đại biểu Hồ Thị Minh nêu kiến nghị.

Đại biểu Vương Thị Hương. Ảnh: Media Quốc hội
Đề cập đến chính sách hỗ trợ nhà ở, đại biểu Vương Thị Hương (Đoàn Tuyên Quang) cho biết, những năm gần đây, chi phí xây dựng nhà ở kiên cố, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã tăng đáng kể, từ giá vật liệu xây dựng đến chi phí vận chuyển. Theo bà, mức hỗ trợ hiện hành không đủ để người dân xây được một căn nhà an toàn.
“Nếu chính sách chỉ dừng lại ở mức hỗ trợ thấp như giai đoạn 1 là ngân sách Trung ương hỗ trợ 40 triệu đồng/căn xây mới, 20 triệu đồng cho nhà sửa chữa thì khả năng hoàn thiện nhà ở phụ thuộc nhiều vào khả năng tự tích lũy vốn của hộ nghèo, điều mà phần lớn họ không thể đáp ứng,” bà Hương nói.
Đại biểu đề xuất nghiên cứu giai đoạn 2 nâng mức hỗ trợ chính sách nhà ở để có thể bao phủ hầu hết các hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn.
Nông sản miền núi không chỉ là hàng hóa

Đại biểu Phạm Văn Hòa. Ảnh: Media Quốc hội
Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đoàn Đồng Tháp) quan tâm đến mục tiêu đến năm 2030, 40% người dân tộc thiểu số biết làm các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch dịch vụ; phấn đấu 80% hộ dân tộc thiểu số làm kinh tế nông - lâm nghiệp hàng hóa. Ông cho rằng cần “định nghĩa” rõ ràng các sản phẩm hàng hóa mà đồng bào dân tộc thiểu số có lợi thế.
Dẫn lời một chuyên gia nông nghiệp về sản xuất hàng hóa ở miền núi, đại biểu Hòa nói, miền núi không có đồng rộng bát ngát, địa hình khó khăn, đất đai phân tán, nếu cứ chen chân vào cuộc đua làm thật nhiều việc thì miền núi luôn ở vạch xuất phát thấp hơn. Ngược lại, tự nhiên cũng ưu đãi cho miền núi những thứ đồng bằng không có, và miền núi không cần chạy theo đồng bằng sản xuất hàng hóa quy mô lớn mà có thể đi con đường chậm rãi nhưng sâu sắc hơn, bản sắc văn hóa dân tộc hơn.
“Sản xuất hàng hóa ở miền núi không phải những đoàn xe container kéo dài mà là những sản phẩm nhỏ nhưng quý giá. Khách du lịch đến miền núi không chỉ mua sản phẩm mà chủ yếu để trải nghiệm những nét văn hóa đặc sắc. Nông sản miền núi vì vậy không chỉ là hàng hóa, mà là câu chuyện, là văn hóa, là dấu ấn của một cộng đồng dân tộc. Khi gắn nông nghiệp với du lịch trải nghiệm, sản phẩm sẽ trở thành kỷ niệm, bản sắc trở thành giá trị gia tăng, trí thức bản địa trở thành sự độc đáo,” đại biểu Phạm Văn Hòa dẫn lời chuyên gia, cũng là định hướng phát triển kinh tế miền núi mà ông tâm đắc.














