Giáo dục - Đào tạo vùng đồng bằng sông Cửu Long đã thoát 'trũng'
Ngày 27/2, tại TP Cần Thơ, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội nghị phát triển GD&ĐT vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Phát biểu khai mạc hội nghị, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn cho biết: ĐBSCL là vùng sản xuất và xuất khẩu lương thực, thực phẩm, thủy hải sản và trái cây lớn nhất của cả nước; đóng góp khoảng 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, gần 65% sản lượng thủy sản nuôi trồng, 60% lượng cá xuất khẩu và gần 70% các loại trái cây của cả nước… Đây là vùng giàu tiềm năng, có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội.
Bộ trưởng nhấn mạnh, thời gian qua, GD&ĐT vùng ĐBSCL đạt được kết quả quan trọng, nhận được quan tâm của địa phương; sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên toàn ngành.
Tuy nhiên, GD&ĐT vùng vẫn còn nhiều thách thức, khó khăn cần khắc phục để phát triển bền vững trong thời gian tới. Tại Hội nghị này, các địa phương tập trung thảo luận, đưa ra giải pháp; nhìn nhận tình hình, chia sẻ kinh nghiệm, cách làm, giải pháp hay để phát triển GD&ĐT vùng ĐBSCL đến 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Giáo dục đồng bằng sông Cửu Long khởi sắc
Theo đánh giá của Bộ GD&ĐT, quán triệt Nghị quyết số 29-NQ/TW, đầu tư ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội cho sự nghiệp GD&ĐT được cải thiện; cơ sở vật chất, thiết bị dạy học từng bước được đầu tư hoàn chỉnh. Chất lượng GD&ĐT được nâng cao phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của khu vực.
Với tỷ lệ khoảng 23 lớp học trên một cơ sở giáo dục THPT, 18,25 lớp học trên một cơ sở giáo dục THCS, ĐBSCL xếp thứ tư trên toàn quốc về quy mô nhà trường tính theo chỉ số lớp học.
Ở cấp THCS, với trung bình hơn 684 học sinh trên 1 cơ sở giáo dục, vùng có số học sinh cao hơn trung bình của toàn quốc và đứng thứ hai khi so sánh với các khu vực khác.
Ở cấp THPT, vùng có số lượng học sinh tiệm cận mức trung bình chung của toàn quốc với tỷ lệ 911,5 học sinh trên 1 cơ sở.
Năm học 2010-2011, vùng ĐBSCL chỉ có 13 cơ sở giáo dục đại học, nhưng đến năm 2020, số lượng cơ sở giáo dục đại học đã tăng lên đến 21, trong đó có 4 phân hiệu và 8 cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập. Trong đó riêng Cần Thơ có 5 trường đại học và 1 phân hiệu, Vĩnh Long có 3 trường đại học và 1 phân hiệu. Các trường đại học trong khu vực hiện đang đào tạo các trình độ từ đại học đến tiến sĩ, với 1.475 lượt ngành đào tạo đại học, 115 lượt ngành đào tạo thạc sĩ và 40 lượt ngành đào tạo tiến sĩ.
Về công tác phổ cập giáo dục, tới năm học 2019-2020, vùng ĐBSCL có 1078 địa phương cấp xã (tỷ lệ 74.4), 75 địa phương cấp huyện (tỷ lệ 76.5%) và 1 tỉnh/thành phố đạt chuẩn mức độ 1; 220 địa phương cấp xã (tỷ lệ 15.2), 15 địa phương cấp huyện (tỷ lệ 15.3%) và 4 tỉnh/thành phố đạt chuẩn mức độ 2.
Nếu như năm học 2010 - 2011, toàn vùng không có tỉnh, thành đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2 thì đến năm học 2021 - 2022, vùng đã có 10/13 (tỷ lệ 76,92%) tỉnh, thành đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2.
Phát biểu tại hội nghị, ông Trần Việt Trường, Chủ tịch UBND TP Cần Thơ cho biết: TP Cần Thơ nói riêng và vùng ĐBSCL nói chung có tầm chiến lược quan trọng, được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hội nghị có ý nghĩa vô cùng quan trọng với sự phát triển GD&ĐT của vùng, đánh giá tình hình giáo dục và đào tạo, tìm các giải pháp phát triển nhằm triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 13-NQ/TW, đưa GD&ĐT vùng ĐBSCL có bước phát triển mới trong giai đoạn tiếp theo.
Báo cáo tình hình địa phương, ông Trần Quang Bảo, Giám đốc Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang cho biết: Đặc thù của Kiên Giang là có nhiều điểm lẻ, cơ bản đáp ứng nhu cầu huy động trẻ đến trường; giáo viên đáp ứng yêu cầu dạy học. Tỉnh quan tâm đầu tư GD&ĐT, nhận thức của xã hội, phụ huynh, học sinh có sự đồng thuận cao. Sau 5 năm, qua sắp xếp các cơ sở giáo dục trực thuộc UBND cấp huyện quản lý, tỉnh giảm được 40 trường do sáp nhập trường có qui mô nhỏ, giảm 521 điểm lẻ, giảm 525 nhóm/lớp; tăng 2 trường mầm non; tăng 3.828 học sinh các cấp học.
Theo ông Nguyễn Minh Luân, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, tỉnh chủ động triển khai chương trình GD phổ thông mới nhưng còn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do không nắm được đội ngũ giáo viên; không chủ động được xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất, đầu tư nặng tính xin cho; mua sắm đồ dùng, trang thiết bị còn cảm tính, không có kế hoạch trung hạn nên đầu tư manh mún, kém hiệu quả.
Để tháo gỡ khó khăn, tỉnh triển khai 3 đề án lớn đến năm 2025: Đề án đào tạo, sắp xếp đội ngũ giáo viên; Đề án xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất; Đề án mua sắm trang thiết bị giáo dục. Ông Luân cho biết Nghị định 116 của Chính phủ hỗ trợ đào tạo giáo viên rất kịp thời, thu hút thí sinh giỏi vào ngành sư phạm.
Nỗ lực phi thường để thoát trũng
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đánh giá cao những nỗ lực của chính quyền địa phương, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo vùng ĐBSCL.
Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh, nhìn lại quá trình phát triển GD&ĐT ĐBSCL, nhất là 10 năm qua, GD&ĐT khu vực có bước tiến, đạt được kết quả quan trọng, bứt phá. Minh chứng qua các số liệu, GD&ĐT vùng đã thoát ra khỏi vùng trũng; đề nghị từ hôm nay không gọi khu vực ĐBSCl là "vùng trũng" nữa.
Bộ trưởng bày tỏ niềm vui, gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo các địa phương trong khu vực, đặc biệt là đội ngũ thầy cô giáo, đã cố gắng vượt bậc, kiên cường trong suốt thời gian qua, để vùng đạt được những kết quả quan trọng trong GD&ĐT.
Tuy ĐBSCL còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, thách thức nhưng chất lượng giáo dục phổ thông rất khả quan. Như kỳ thi tốt nghiệp THPT, chất lượng đứng trong nhóm 2 trong 6 vùng. Các chỉ số về cơ sở vật chất, trang thiết bị, huy động trẻ ra lớp, tỷ lệ học sinh bỏ học, tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ học sinh học 2 buổi/ngày còn nhiều khó khăn nhưng chỉ số chất lượng giáo dục phổ thông đứng thứ 2. Điều này thể hiện chất lượng của đội ngũ, cho thấy đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý đã có sự nỗ lực phi thường.
GD&ĐT khu vực còn nhiều khó khăn, thách thức chồng chất, vì hiện nay ngành đang đổi mới căn bản toàn diện với mục tiêu phấn đấu rất cao, kỳ vọng rất lớn. Đối với khu vực điều kiện thuận lợi thì khó khăn ít đi, nhưng ĐBSCL đứng trước thách thức kép: vừa phấn đấu đổi mới để vươn cao cùng cả nước, vừa củng cố bù đắp cho yếu tố có tính chất tối thiểu, nền tảng, cơ bản. Năm học 2023-2024 là thời điểm nước rút triển khai chương trình GDPT 2018. Do đó, nhu cầu giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị cấp bách và thách thức đang chờ phía trước.
Tuy nhiên, ĐBSCL cũng có những điểm thuận lợi. Với chính sách và tình hình khả quan như hiện nay, thời gian tới vùng ĐBSCL sẽ tăng trưởng kinh tế năng động, có điều kiện cải thiện về hạ tầng, giao thông. Chính quyền các địa phương quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ, đội ngũ nhà giáo quyết tâm cao. Học trò nền nếp, con người ĐBSCL hào hiệp, hồn hậu, phóng khoáng là điều kiện thuận lợi trong giáo dục con người.
Bày tỏ niềm tin tưởng toàn vùng sẽ tiếp tục vượt qua khó khăn để đưa GD&ĐT phát triển, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đề nghị các địa phương ĐBSCL có giải pháp tổng thể, trong đó cấp bách là kiên cố hóa trường, lớp; đầu tư trang thiết bị phòng học bộ môn phục vụ chương trình mới; Có phương án phù hợp trong sắp xếp điểm trường; Có mẫu trường học phù hợp với địa hình, khí hậu của khu vực.
Mục tiêu nâng cao mặt bằng dân trí là yêu cầu thiết thân của ĐBSCL. Vì thế, về ngân sách, địa phương cần quan tâm hơn, nhất là thời điểm 2023 - 2024 khi Chương trình GDPT 2018 vào trọng tâm của đổi mới. Địa phương cần phối hợp chặt chẽ hơn với Bộ GD&ĐT, các bộ ngành để kiến nghị, đề xuất chính sách đầu tư... - Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn.