Giáo dục miền núi Đà Nẵng: Sớm lấp 'khoảng trống' về chính sách
Qua thực tế khảo sát, giám sát của Ban Văn hóa – Xã hội HĐND thành phố Đà Nẵng tại các xã miền núi cho thấy hàng loạt khó khăn, tồn tại nhiều năm, từ cơ sở vật chất đến nhân lực. Điều này đặt ra nhu cầu cấp thiết về những chính sách mới phù hợp đặc thù địa phương sau khi các chính sách cũ hết hiệu lực.
Cơ sở vật chất xuống cấp, thầy cô “thấp thỏm”
Khảo sát thực tế của Ban Văn hóa – Xã hội HĐND thành phố mới đây cho thấy, giáo dục miền núi Đà Nẵng (chủ yếu nằm trên địa bàn thuộc tỉnh Quảng Nam trước đây) đang phải đối mặt với nhiều khó khăn kéo dài. Theo đó, những năm trước, tỉnh Quảng Nam (cũ) đã ban hành nhiều nghị quyết hỗ trợ trẻ em, học sinh dân tộc thiểu số, học sinh khuyết tật và giáo viên vùng cao. Tuy nhiên, sau khi sáp nhập, các chính sách này hết hiệu lực, nhiều tồn tại cũ lập tức quay trở lại. Năm học 2025 - 2026 đã qua gần nửa học kỳ, nhưng nhiều trường miền núi vẫn chưa thể yên tâm hoàn toàn.

Điểm Trường Tiểu học Tu Lung, thôn 8, xã Trà Tập với điều kiện dạy và học rất khó khăn. Ảnh: NT
Theo báo cáo, điều dễ thấy nhất là cơ sở vật chất xuống cấp và thiếu đồng bộ. Địa hình đồi núi bị chia cắt khiến việc đi lại khó khăn, buộc nhiều trường phải duy trì hàng chục điểm trường lẻ. Sự phân tán này khiến việc đầu tư càng khó khăn, kéo dài nhiều năm mà chưa thể cải thiện đáng kể. Tại xã Trà Tập, trong tổng số 95 phòng học thuộc 46 điểm trường, có đến 47 phòng chỉ là bán kiên cố. Ở xã Nam Trà My, 31 trên 79 phòng học cũng trong tình trạng tương tự. Nhiều phòng đã xuống cấp nhưng chưa được sửa chữa kịp thời. Phòng chức năng, phòng bộ môn hay khu vui chơi gần như vắng bóng ở nhiều điểm trường. Bếp ăn và nhà vệ sinh phần lớn còn tạm bợ, không đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh.
Cùng với thiếu thốn cơ sở vật chất là tình trạng thiếu giáo viên kéo dài. Số lượng giáo viên hợp đồng chiếm tỷ lệ lớn, trong khi giáo viên các môn như ngoại ngữ, thể chất, nghệ thuật… vẫn còn thiếu. Riêng xã Nam Trà My có 104 giáo viên hợp đồng trên tổng số 173 biên chế; xã Trà Tập có 51 hợp đồng trên tổng 194 biên chế. Việc tuyển dụng giáo viên gặp khó do chính sách chưa đủ hấp dẫn, điều kiện sinh hoạt khắc nghiệt, giao thông cách trở khiến nhiều giáo viên xin chuyển về vùng đồng bằng. Nguồn giáo viên địa phương lại rất hạn chế.
Sau khi thành phố thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, công tác quản lý và tuyển dụng nhân sự giáo dục có những thay đổi. Hiện thành phố phải chờ Luật Nhà giáo và Luật Viên chức sửa đổi cùng các văn bản hướng dẫn mới tiến hành tuyển dụng. Điều này khiến giáo viên hợp đồng phải chờ đến năm 2026 mới có cơ hội thi tuyển, dẫn đến tâm lý lo lắng, thiếu ổn định. Không chỉ giáo viên, nhân viên nấu ăn tại các trường bán trú cũng đang gặp nhiều khó khăn.
Nhiều trường tiểu học và THCS trên địa bàn miền núi là bán trú, nhưng thực tế học sinh không thể đi, về trong ngày do đường sá quá xa. Vì vậy, các em buộc phải ở lại nội trú. Một số trường phải tận dụng phòng học cũ để làm chỗ ở qua đêm cho học sinh. Tại Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học và THCS Trà Nú (xã Trà Liên), phòng ở chật chội, đông đúc, nhiều khu vực không đáp ứng yêu cầu tối thiểu. Bếp ăn chứa nhiều vật dụng, không khác gì một nhà kho. Nhiều em dù không thuộc diện được hưởng chế độ nhưng vẫn phải ở lại, buộc nhà trường phải tìm nguồn hỗ trợ hoặc phát sinh nợ với các cơ sở cung cấp thực phẩm.
Cần chính sách mới phù hợp đặc thù địa phương
Trong bối cảnh đó, Nghị định số 66/2025/NĐ-CP của Chính phủ được xem là một bước tiến mới khi mở rộng đối tượng và tăng mức hỗ trợ cho học sinh vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, Nghị định chỉ quy định mức hỗ trợ tối thiểu và giao HĐND cấp tỉnh căn cứ điều kiện thực tế để ban hành chính sách bổ sung. Đây chính là điểm then chốt mà giáo dục miền núi Đà Nẵng đang chờ đợi.

Phó Chủ tịch HĐND thành phố Đà Nẵng Đoàn Ngọc Hùng Anh cùng đoàn công tác khảo sát tại Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học và THCS Trà Nú (xã Trà Liên)
Qua giám sát, Thường trực HĐND thành phố nhiều lần đề nghị UBND và Sở Giáo dục và Đào tạo sớm xây dựng chính sách cụ thể hóa Nghị định 66, bởi các chính sách của tỉnh Quảng Nam trước đây - vốn là “bệ đỡ” quan trọng đã hết hiệu lực.
Việc chậm ban hành chính sách mới khiến giáo viên hợp đồng tiếp tục bất ổn, học sinh không được hưởng mức hỗ trợ cần thiết, còn các trường phải tự xoay sở trong điều kiện thiếu thốn. Theo các thành viên đoàn giám sát, trước mắt, thành phố cần ưu tiên tổ chức tuyển dụng viên chức giáo dục để giáo viên hợp đồng ổn định công tác, bảo đảm quyền lợi. Cùng với đó, nghiên cứu ban hành chính sách đặc thù để thu hút và giữ chân giáo viên miền núi.
Việc luân chuyển giáo viên giữa đồng bằng và miền núi cũng cần được thực hiện theo kế hoạch dài hạn, công khai và minh bạch. Về lâu dài, việc đào tạo, ưu tiên sử dụng giáo viên là người địa phương nên được xem là hướng đi bền vững. Đây là nguồn nhân lực có khả năng gắn bó lâu dài, am hiểu văn hóa cộng đồng, phù hợp với yêu cầu giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số.
Song song với đó, các trường miền núi không chỉ cần phòng học kiên cố mà còn cần phòng chức năng, phòng bộ môn, khu nội trú, bếp ăn, nhà vệ sinh đạt chuẩn. Khi hạ tầng được đầu tư đồng bộ, chất lượng dạy và học mới có nền tảng để cải thiện bền vững. Thực tế cho thấy, đầu tư cho giáo dục miền núi không chỉ đáp ứng nhu cầu hiện nay mà còn đầu tư cho tương lai của cộng đồng vùng cao. Với nhiều đặc thù về địa hình, điều kiện kinh tế và tập quán sinh hoạt, giáo dục miền núi Đà Nẵng cần những chính sách phù hợp và kịp thời hơn.
Khi các chính sách mới được ban hành và đi vào cuộc sống, thầy cô sẽ yên tâm công tác, học sinh được học trong môi trường tốt hơn, và khoảng cách giữa miền núi - miền xuôi sẽ từng bước được thu hẹp.












