Giúp hàng hóa nhập khẩu dễ dàng xác định được thuế suất

Theo quyết nghị của Quốc hội tại Kỳ họp thứ Năm, việc giảm 2% thuế giá trị gia tăng sẽ được thực hiện từ 1.7 đến hết năm 2023 nhằm kích cầu và thúc đẩy thị trường nội địa. Thời gian qua, Bộ Tài chính đã xây dựng dự thảo Nghị định để kịp thời triển khai chính sách này. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho rằng dự thảo cần giúp hàng hóa nhập khẩu dễ dàng xác định được thuế suất.

Bổ sung hướng dẫn với các trường hợp đang được quản lý giá

Một trong những quyết sách của Quốc hội tại Kỳ họp thứ Năm vừa qua được cộng đồng doanh nghiệp và người dân hết sức mong đợi đó là tiếp tục tiếp tục giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng (VAT), quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% từ ngày 1.7.2023 đến hết năm 2023. nguồn ITN

Giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% từ ngày 1.7.2023 đến hết năm 2023. nguồn ITN

Theo Nghị quyết chung của Kỳ họp thứ Năm, việc giảm thuế sẽ được thực hiện từ 1.7 đến hết năm nay để kích cầu và thúc đẩy thị trường nội địa. Trong quá trình Quốc hội thảo luận, Bộ Tài chính đã chủ trì xây dựng dự thảo Nghị định về giảm thuế VAT giá trị gia tăng 2% nhằm kịp thời triển khai khi Quốc hội ra quyết định.

Góp ý vào dự thảo Nghị định này, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, hiện nay, một số loại hàng hóa, dịch vụ đang được áp dụng các biện pháp quản lý giá, như Nhà nước định giá, đăng ký giá, kê khai giá và niêm yết giá. Chính sách giảm 2% thuế VAT sẽ tác động đến việc thực hiện các biện pháp quản lý giá như trên. Ví dụ, trường hợp doanh nghiệp đã kê khai giá, đăng ký giá (đã bao gồm thuế) thì có cần phải giảm giá tương ứng với phần giảm thuế 2% không hay vẫn áp dụng giá cũ? Doanh nghiệp có cần làm thủ tục kê khai, đăng ký giá đã điều chỉnh không?

Bên cạnh đó, một số loại hàng hóa, dịch vụ có thể giảm giá 2% khá dễ dàng, nhưng một số loại hàng hóa, dịch vụ có giá đã được làm tròn để dễ thanh toán thì việc điều chỉnh giá biên độ nhỏ (2%) không khả thi. Ví dụ, doanh nghiệp bưu chính chuyển phát đã kê khai giá 5.000 đồng/km, nếu phải giảm xuống còn 4.909 đồng/km sẽ rất phức tạp.

Vì vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định hướng dẫn các trường hợp đang được quản lý giá khi giảm thuế VAT theo hướng doanh nghiệp không cần làm thủ tục điều chỉnh giá và được phép áp dụng giá đã đăng ký, kê khai.

Doanh nghiệp nhập khẩu lúng túng khi xác định thuế suất

Về Danh mục hàng hóa dịch vụ không thuộc đối tượng được giảm thuế VAT, theo VCCI, trong phần đánh giá tình thực hiện giảm thuế VAT theo Nghị quyết số 43, cơ quan soạn thảo cho rằng việc giảm thuế này gặp một số khó khăn, vướng mắc.

Ví dụ như cách xác định hàng hóa, dịch vụ giảm thuế VAT. Hay là mô tả hàng hóa tại Phụ lục kèm Nghị định 15/2022/NĐ-CP (về giảm thuế VAT) (dựa trên Danh mục Hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam) không tương ứng với mô tả hàng hóa tại Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam; điều này dẫn đến khó khăn khi xác định mã HS đối với hàng hóa nhập khẩu tại các Phụ lục, đặc biệt là các dòng hàng có mô tả “hàng hóa… chưa được phân vào đâu”.

VCC cho biết, theo phản ánh của doanh nghiệp, việc phân loại hàng hóa, dịch vụ nào được hưởng thuế suất 8% hay 10% theo Nghị định 15/2022/NĐ-CP rất phức tạp và quá nhiều rủi ro. Các doanh nghiệp không biết mình thực hiện đúng hay sai. Nhiều trường hợp hai doanh nghiệp mua bán hàng hóa với nhau nhưng không thống nhất được áp dụng thuế suất 8% hay 10% khiến hợp đồng không thể thực hiện được.

Trong khi đó, chính các cơ quan thuế, cơ quan hải quan cũng lúng túng trong việc phân loại hàng hóa, dịch vụ để áp dụng. Điều này thậm chí còn gây nguy cơ nhũng nhiễu, tiêu cực khi doanh nghiệp bị thanh tra, kiểm tra do cơ quan Nhà nước có thể diễn giải quy định theo nhiều cách khách nhau.

Bên cạnh đó, dự thảo Nghị định bổ sung quy định “Mã HS trong Phụ lục I và Phụ lục III chỉ để tra cứu. Việc xác định mã số HS của hàng hóa nhập khẩu thực hiện theo quy định pháp luật hải quan.” Tuy nhiên, Phụ lục I và Phụ lục III vẫn có các trường hợp không có mã HS mà được ký hiệu (*), và sẽ khai báo mã HS theo thực tế hàng hóa nhập khẩu. Đây là điểm khiến các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa gặp nhiều khó khăn vì không cơ sở để biết hàng hóa của mình (đã có mã HS khi nhập khẩu) có thuộc Phụ lục hay không.

Nhiều doanh nghiệp kiến nghị nên sử dụng bảng phân loại hàng hóa nhập khẩu theo pháp luật hải quan làm cơ sở để xây dựng Phụ lục I và Phụ lục III của Nghị định này, thay cho việc sử dụng Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam. Giải pháp này có thể giúp hàng hóa nhập khẩu dễ dàng xác định được thuế suất, thay vì tình trạng hiện nay là cả hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa trong nước đều gặp khó khăn khi xác định thuế suất. VCCI đề nghị, trong trường hợp không kịp sử dụng bảng phân loại hàng hóa nhập khẩu thì cần liệt kê đầy đủ các mã HS hàng nhập khẩu áp dụng thuế 10%. Nói cách khác, cần loại bỏ toàn bộ các trường hợp ngoại lệ được ký hiệu (*).

Vũ Quang

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/kinh-te-xa-hoi/giup-hang-hoa%C2%A0nhap-khau-de-dang-xac-dinh-duoc-thue-suat-i333897/