Gỡ nút thắt, tăng quyền tự chủ
Dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (sửa đổi) đang nhận được nhiều sự quan tâm. Luật được kỳ vọng sẽ hiện đại hóa quản trị, nâng cao hiệu quả đầu tư công và khơi thông nguồn lực phát triển. Trao đổi với PetroTimes, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhấn mạnh vai trò tự chủ của doanh nghiệp và sự cần thiết của nguyên tắc phân quyền rõ ràng.
Phân cấp hợp lý để tránh “ôm đồm”, thúc đẩy tự chủ doanh nghiệp
Theo PGS.TS Nguyễn Thường Lạng việc duy trì phạm vi áp dụng Luật chỉ với doanh nghiệp cấp 1 (không bao gồm doanh nghiệp cấp 2) là một hướng đi hợp lý, vừa giảm bớt sự can thiệp hành chính của Nhà nước, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp được phát huy tính chủ động và linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
“Bản thân doanh nghiệp nhà nước là một thực thể kinh tế, nên cũng cần được trao quyền tự chủ nhất định. Việc chỉ áp dụng luật ở cấp doanh nghiệp cấp 1 đã là đủ để Nhà nước nắm giữ và kiểm soát những phần then chốt, những tài sản cốt lõi,” ông Lạng phân tích.

Dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp phân cấp mạnh mẽ, tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước.
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cũng cảnh báo rằng nếu Nhà nước tiếp tục can thiệp sâu tới các doanh nghiệp cấp 2, thì sẽ dẫn tới tình trạng giám sát chồng chéo, làm triệt tiêu động lực đổi mới sáng tạo và kìm hãm hiệu quả kinh doanh. Trong môi trường thị trường năng động, những ràng buộc cứng nhắc từ cấp quản lý hành chính sẽ khiến doanh nghiệp mất khả năng thích ứng, thậm chí dẫn tới thua lỗ điều mà rốt cuộc Nhà nước lại phải chịu trách nhiệm.
Luật mới thể hiện rõ nguyên tắc Nhà nước thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp tại doanh nghiệp, tôn trọng cơ chế quản trị nội bộ của doanh nghiệp. Như Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng nhấn mạnh: “Khi đã góp vốn vào thì phải tôn trọng doanh nghiệp. Nguồn vốn đó sẽ hình thành tài sản của doanh nghiệp, và phải để doanh nghiệp tự chủ sử dụng tài sản theo luật định”.
Đối với các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn, dự thảo đã mạnh dạn phân cấp cho Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty toàn quyền quyết định các vấn đề chiến lược như huy động vốn, kế hoạch đầu tư, chính sách tiền lương, thù lao, thưởng, và cả việc cho vay công ty con. Tương tự, ở doanh nghiệp có từ 51% đến dưới 100% vốn Nhà nước, người đại diện phần vốn Nhà nước cũng được phân quyền quyết định nhiều vấn đề mà trước đây phải chờ ý kiến cấp trên.
Cần ưu đãi theo tình huống cụ thể
Bên cạnh việc phân cấp mạnh mẽ, tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước, theo PGS.TS Nguyễn Thường Lạng dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (sửa đổi) cũng nên có một số chinh sách cho nhóm doanh nghiệp nhà nước trọng yếu, thực hiện nhiệm vụ chính trị, an sinh xã hội hoặc đảm bảo an ninh năng lượng, quốc phòng. Ví dụ, đối với những nhiệm vụ thực sự đặc biệt, có tính chất cấp thiết liên quan đến an ninh quốc phòng, an sinh xã hội hay đảm bảo an ninh năng lượng trong từng thời điểm cụ thể, Nhà nước có thể áp dụng các hình thức ưu đãi, hỗ trợ mang tính tình huống, theo từng vụ việc cụ thể. Điều này sẽ đảm bảo vừa thực hiện được các mục tiêu chính trị - xã hội cần thiết, vừa tránh tạo ra cơ chế bao cấp hay đặc quyền kéo dài, gây méo mó thị trường và làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng (Đại học Kinh tế Quốc dân).
Một vấn đề quan trọng được PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhắc đến trong dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (sửa đổi) là cần có cách tiếp cận mềm dẻo và thực tế hơn với các khoản đầu tư mang tính sáng tạo trong doanh nghiệp có vốn Nhà nước.
“Bản chất của đầu tư cho nghiên cứu- phát triển là chấp nhận rủi ro, và rủi ro thua lỗ là điều khó tránh khỏi. Không phải khoản đầu tư nào cũng đem lại kết quả ngay, thậm chí có những dự án thất bại hoàn toàn, nhưng lại mang lại kinh nghiệm, dữ liệu cho các bước đi sau này. Vì vậy, cần có một ngưỡng chấp nhận được về mức độ rủi ro trong đầu tư phát triển, tương tự như cách chúng ta đánh giá hiệu quả đầu tư cho khoa học - công nghệ.,” ông Lạng nhận định.
Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo, nếu không có quy định rõ ràng thì rất dễ xảy ra tình trạng lợi dụng danh nghĩa “đổi mới sáng tạo” để hợp thức hóa thua lỗ hoặc thất thoát vốn. Vì vậy, cần thiết lập một khung pháp lý minh bạch: quy định mức độ rủi ro có thể chấp nhận, tiêu chí đánh giá dự án, và cơ chế giám sát - hậu kiểm độc lập.
Theo ông Lạng, cơ chế chia sẻ rủi ro phải đi cùng với công khai, minh bạch và có tiêu chí đánh giá khách quan. Trong trường hợp khoản đầu tư vượt quá ngưỡng rủi ro hoặc có dấu hiệu sai phạm, người đứng đầu vẫn phải bị xem xét trách nhiệm.
Nhìn tổng thể, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng dự thảo Luật lần này cần có nhiều bước tiến tích cực trong tư duy quản lý vốn nhà nước từ chỗ can thiệp sâu sang tiếp cận theo cơ chế thị trường, phân quyền rõ ràng và nhấn mạnh vai trò hậu kiểm. Đây là hướng đi đúng đắn nếu Việt Nam muốn xây dựng một hệ thống doanh nghiệp nhà nước năng động, đổi mới và có năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế hội nhập.
“Cốt lõi là phải xác lập được giới hạn can thiệp của Nhà nước, nâng cao trách nhiệm giải trình của người đứng đầu và đồng thời tạo ra một hành lang pháp lý đủ rộng để doanh nghiệp tự chủ vận hành. Có như vậy, vốn nhà nước mới được sử dụng hiệu quả và tạo ra giá trị thực sự,” ông Lạng khẳng định.
Nguồn PetroTimes: https://kinhtexaydung.petrotimes.vn/go-nut-that-tang-quyen-tu-chu-727421.html