GÓC NHÌN: CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG KHU VỰC HÀNH CHÍNH, SỰ NGHIỆP CÔNG
Quốc hội thông qua Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2024. Nghị quyết nêu rõ, từ ngày 1/7/2024, thực hiện cải cách tổng thể chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. Việc Quốc hội thông qua chính sách này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh hiện nay để vừa bảo đảm thu nhập gắn với xác định vị trí việc làm, tinh giản biên chế, sử dụng và quản lý hiệu quả đội ngũ công chức, viên chức. Cổng TTĐT Quốc hội trân trọng giới thiệu bài viết phân tích để thấy rõ hơn ý nghĩa của việc thực hiện chính sách cải cách tiền lương
GÓC NHÌN: NHỮNG ĐỘT PHÁ VỀ CHÍNH SÁCH TRONG DỰ ÁN LUẬT CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG, AN NINH VÀ ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP
QUỐC HỘI BIỂU QUYẾT THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT VỀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2024
Lao động khu vực hành chính, sự nghiệp công có vai trò quan trọng đặc biệt, nhưng chính sách tiền lương lại quá bất cập trong thời gian dài. Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII số 27-NQ/TW ngày 21-5-2018 đã chỉ rõ. “Chính sách tiền lương khu vực công còn phức tạp, ... còn mang nặng tính bình quân, không bảo đảm được cuộc sống, chưa phát huy được nhân tài, chưa tạo được động lực để nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc của người lao động”. Từ đây, Nghị quyết khẳng định, “Tiền lương phải thực sự là nguồn thu nhập chính bảo đảm đời sống người lao động và gia định người hưởng lương; trả lương đúng là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực...”.
1. Nhìn lại mức lương tối thiểu:
- Theo Nghị định 05/CP ngày 26-01-1994 thì từ ngày 01-01-1995 tất cả người lao động đang làm việc ở cả hai khu vực (khu vực công và khu vực lao động thị trường) đều được áp dụng một mức lương tối thiểu chung là 120.000 đồng/tháng. Sau đó mức lương tối thiểu chung được điều chỉnh 6 lần nữa vào các năm:1997 là 144.000 đồng; năm 2000 là 180.000 đồng; năm 2001 là 210.000 đồng; năm 2003 là 290.000 đồng; năm 2005 là 350.000 đồng; năm 2006 là 450.000 đồng. Lao động hai khu vực có chung mức lương tối thiểu cho đến hết ngày 31-12-2007.
- Từ năm 2008 có sự phân biệt: Đối với lao động khu vực thị trường thì được chia ra 3 vùng; mức lương tối thiểu được quy định cho từng vùng và theo từng loại hình doanh nghiệp (trong nước, có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam). Khu vực công có sự phân biệt là được áp dụng mức lương tối thiểu thấp nhất trong các mức lương tối thiểu:
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam: Vùng I, mức lương tối thiểu là 1.000.000 đồng/tháng; vùng II là 900.000 đồng/tháng và vùng III là 800.000 đồng/tháng (Nghị định 168/2007/NĐ-CP ngày 16-11-2007).
+ Doanh nghiệp trong nước, tương ứng các vùng nói trên là 620.000 đồng/tháng, 580.000 đồng/tháng và 540.000 đồng/tháng (Nghị định 167/2007/NĐ-CP ngày 16-11-2007).
+ Còn mức lương tối thiểu chung (thực chất là mức lương tối thiểu của khu vực công) là 540.000 đông/tháng (Nghị định 166/2007/NĐ-CP ngày 16-11-2007). Đây là lối rẽ đi riêng dành cho khu vực công.
Khi hai khu vực lao động còn chung một mức lương tối thiểu đã không lý giãi rõ ràng được mâu thuẫn, vì sao lao động khu vực công tuyệt đại bộ phận là lao động trí óc - chất xám, được đào tạo dài hạn (từ đại học trở lên) đang nắm giữ những công việc, những vị trí công tác then chốt trong hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên) mà cũng chỉ được áp dụng mức lương tối thiểu như khu vực lao động thị trường (lao động được đào tạo ngắn hạn và lao động phổ thông khi ấy chiếm đến 80%). Đến khi quy định mức lương tối thiểu chung (thực ra là riêng cho khu vực công) chỉ bằng mức lương tối thiểu thấp nhất trong các mức lương tối thiểu (540.000 đồng) của lao động thị trường (áp dụng cho các doanh nghiệp trong nước) thì mâu thuẫn trên càng nổi cộm lên, càng không thể lý giãi được sự khác biệt đó. Lao động trí tuệ, chất xám mà mức lương tối thiểu chỉ tương đương với lao động khu vực thị trường trong nước được đào tạo ngắn ngày hoặc lao động phổ thông làm việc chủ yếu ở nông thôn, miền núi !
- Từ năm 2009 đến nay, lao động khu vực thị trường được thống nhất mức lương tối thiểu theo 4 vùng cho tất cả các loại doanh nghiệp. Qua 21 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu, từ Nghị định 110/2008/NĐ-CP ngày 10-10-2008 đến Nghị định 38/2022/NĐ-CP ngày 12-6-2022, mức lương tối thiểu vùng I từ 800.000 đồng/tháng lên 4.680.000 đồng/tháng; tương tự như vậy, vùng II từ 740.000 đồng lên 4.160.000 đồng, vùng III từ 690.000 đồng lên 3.640.000 đồng, vùng IV từ 650.000 đông lên 3.250.000 đồng/tháng. Cũng trong thời gian đó, lao động khu vực công chỉ được điều chỉnh 6 lần. Từ Nghị định 33/2009/NĐ-CP ngày 06-4-2009 đến Nghị định 70/2018/NĐ-CP ngày 09-11-2018, mức lương tối thiểu từ 650.000 đồng/tháng lên mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng / tháng. Vừa mới đây, từ 1-7-2023 mới nâng lên 1.800.000 đồng.
Trong cùng thời gian (tính đến hết năm 2022), mức lương tối thiểu của lao động khu vực thị trường đã tăng 5 lần ở vùng IV; 5,27 lần ở vùng III; 5,62 lần ở vùng II và 5,85 lần ở vùng I. Còn mức lương tối thiểu của lao động khu vực công (được thay bằng mức lương cơ sở) chỉ tăng 2,29 lần, chưa nói đến tình trạng điều chỉnh không kịp thời và mức điều chỉnh thấp. Song vấn đề trầm trọng hơn là, giá trị của lao động trí tuệ - chất xám, lao động lãnh đạo, quản lý, lao động hoạch định luật pháp, chính sách, lao động hoạt động khoa học, công nghệ... biểu thị qua mức lương tối thiểu ngày càng bị xem nhẹ, bị đánh giá thấp, tới mức khó có thể chấp nhận. Năm 2008 mức lương tối thiểu của các lao động chất xám chỉ bằng mức lương tối thiểu vùng III của lao động thị trường (cùng là 540.000 đồng). Đến năm 2022, mức lương cơ sở của khu vực công (chất xám) chỉ còn bằng 45,84% mức lương tối thiểu của lao động thị trường vùng IV(nông thôn, miền núi), bằng 40,93% của vùng III, bằng 35,81% của vùng II và bằng 31,83% của vùng I.
Trong khu vực công, 4 chức năng tích cực, cơ bản của chính sách tiền lương đều đã bị mai một. Đó là chức năng Thước đo giá trị (phép đo bị đảo lộn), chức năng Tái sản xuất sức lao động (không thể tái được), chức năng Kích thích nâng cao hiệu quả công tác (không có động lực nên không kích thích được; người giỏi thì bỏ đi, người yếu kém thì bám lại) và chức năng Tích lũy, để dành (chi tiêu thiết yếu còn chưa đủ thì lấy gì tích lũy, để dành)!
2. Về mức lương cơ sở của khu vực công:
Từ khi mức lương tối thiểu ra đời đến khi bị thay tên gọi, chưa thấy có một tổng kết đầy đủ, nghiêm túc nào đánh giá mặt được, mặt thiếu sót hay khiếm khuyết của việc quy định và thực hiện mức lương tối thiểu ở khu vực công; cũng chưa thấy có một công trình khoa học hay một đề án nghiên cứu nào đề xuất một mức lương khác khả dĩ hơn thay cho mức lương tối thiểu. Thế nhưng tự nhiên xuất hiện Nghị định 66/2013/NĐ-CP ngày 27-6-2013 Quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Trước đó, Nghị định 31/2012/NĐ-CP ngày 12-4-2012 Quy định mức lương tối thiểu chung, Điều 2- Đối tượng áp dụng cũng nói rõ là mức lương tối thiểu chung quy định tại Nghị định này áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, các lực lượng vũ trang, tức là hai Nghị định cùng một đối tượng áp dụng nhưng tên mức lương thì khác nhau. Nghị định 66 ra đời sau Nghị định 31 một năm, không đưa ra lý do thay đổi tên mức lương tối thiểu bằng mức lương cơ sở, cũng không đưa ra nội hàm mức lương cơ sở là gì mà chỉ quy định tại Điều 3 khoản 2, “Từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 mức lương cơ sở là 1.150.000 đồng/tháng”. Ngay cả Thông tư số 07/2013/BNV ngày 31-7-2013 hướng dẫn thực hiện mức lương cơ sở đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp, thì Điều 2- Giải thích từ ngữ cũng không giải thích thế nào là mức lương cơ sở. Xem lại lý luận và thực tiễn về tiền lương của nước ta từ năm 1958 đến 30-7-2013 cũng không hề thấy thuật ngữ “mức lương cơ sở”! Có lẽ vì thế nên NQ 27-NQ/TW đã khẳng định từ năm 2021 trở đi, “Bãi bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay, xây dựng mức lương cơ bản bằng số tiền cụ thể trong bảng lương mới”.
Trong lần cải cách này, để góp phần đánh giá đúng giá trị của lao động “chất xám”, rất cần thiết phải chú ý một vài điểm sau:
- Trước hết phải thấy rõ những đặc điểm cơ bản của lao động khu vực công, phần lớn là người hoạch định chính sách, luật pháp, chế độ; nhiều người có chức danh quản lý, lãnh đạo, là loại lao động thao tác các công việc có độ phức tạp cao. Như đã biết, “...trong cùng một thời gian, lao động phức tạp đem lại hiệu quả nhiều hơn lao động giản đơn. Do đó tùy theo mức độ của lao động phức tạp cao hay thấp mà quy thành một bội số của lao động giản đơn” . Lao động khu vực công là lao động trí óc, “Lao động trí óc và lao động chân tay vẫn còn có những khác biệt quan trọng về mặt kinh tế - xã hội, về điều kiện lao động, về mức sống, về trình độ văn hóa và trình độ phát triển trí tuệ cá nhân”. Rất nhiều các nhà quản lý, lãnh đạo các cấp, các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách, pháp luật, các biên tập viên, phóng viên báo chí, các chuyên gia, nhà giáo, nhà văn... không chỉ làm việc trong giờ hành chính mà họ còn tác nghiệp ngoài giờ bất kỳ ở đâu, bất kể lúc nào công việc dồn đến hoặc bất chợt lóe lên những suy nghĩ mới trong công việc của họ...
Như đã nói ở trên, phải quán triệt sâu sắc Nghị quyết 27-NQ/TW đó là: Phải coi chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội. Tiền lương phải thực sự là nguồn thu nhập chính bảo đảm đời sống cho người hưởng lương và gia đình họ. Trả lương đúng, chính là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Cải cách chính sách tiền lương phải gắn với cải cách hành chính, đổi mới, tinh giản, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy. Tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động, hiệu quả công tác làm cơ sở để tăng lương... Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khảng định, “Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi của giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả. Chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, cố gắng bảo đảm nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm...”. Theo đó cần khẩn trương tiến hành các công việc cấp bách, thiết yếu sau:
1. Vấn đề bao quát nhất, cơ bản nhất là phải bảo đảm được các chức năng của tiền lương.
- Chức năng đầu tiên, tiền lương phải là thước đo giá trị của sức lao động và phản ảnh giá trị sức lao động: Đây là chức năng quan trọng bậc nhất của tiền lương. Thực hiện chức năng này đòi hỏi việc xác định tiền lương phải dựa trên cơ sở xác định đúng đắn giá trị sức lao động. Đây là một trong những khó khăn, phức tạp nhất nhưng không thể không làm. Khi giá trị sức lao động thay đổi thì tiền lương cũng phải thay đổi theo. Trên thực tế giá trị sức lao động có xu hướng tăng lên (do được bồi dưỡng tri thức, có kinh nghiệm hơn do có thâm niên công tác) nên tiền lương cũng phải theo xu hướng đó mà tăng lên.
- Chức năng tái sản xuất sức lao động: Đó chính là khôi phục lại sức lao động đã tiêu hao. Khi mà nguồn sống chủ yếu của người lao động và gia đình họ là tiền lương thì tiền lương ít nhất phải đủ để người lao động bù đắp lại hao phí lao động đã bị tiêu hao trong quá trình làm việc. Nếu không thực hiện được chức năng này thì sức lao động, khả năng làm việc của người lao động sẽ ngày càng suy giảm, cạn kiệt và sẽ tác động tiêu cực đến quá trình làm việc (năng suất, hiệu quả công việc giảm sút).
- Chức năng kích thích lao động: Tiền lương không chỉ để tái sản xuất sức lao động mà còn phải có tác động kích thích người lao động làm việc có hiệu quả. Người quản lý, lãnh đạo phải biết sử dụng tiền lương như một đòn bẩy kinh tế thúc đẩy công việc phát triển. Việc trả lương phải phân biệt được người làm việc có hiệu quả cao với người làm việc kết quả trung bình hoặc yếu kém.
- Chức năng tích lũy, để dành: Tích lũy là vấn đề cần thiết khách quan đối với người lao động phòng khi bất trắc có thể xẩy ra. Thực tế hiện nay, tiền lương của phần đông cán bộ, công chức không đủ chi dùng, do đó không có điều kiện tích lũy; đây cũng là nguyên nhân của sự biến động lao động, nguyên nhân không muốn tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và nhiều hệ lụy khác.
Có bảo đảm được các chức năng của tiền lương như trên thì cải cách chính sách tiền lương mới thực sự có ý nghĩa.
2. Cải cách chính sách tiền lương phải bảo đảm giá trị đích thực cho lao động khu vực công.
Nội hàm của mức lương tối thiểu thì đã được minh định khá rõ ràng và đã được luật hóa, đang phát huy hiệu quả tích cực. Còn mức lương cơ sở hiện nay chưa rõ nội hàm như thế nào, nhưng thực tế đã gây ra hậu quả tiêu cực khá rõ. Một trong những hậu quả, đó là, cán bộ, công chức bỏ việc, chuyển việc mà nguyên nhân đầu tiên là do tiền lương không đủ sống (chiều 27-10-2022, tại kỳ họp thứ Tư Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã nhận định, “số công chức thôi việc, nghỉ việc đồng loạt trong thời gian hơn 2 năm qua là điều chúng ta cần nhìn nhận nghiêm túc và cũng là một vấn đề đáng quan ngại” và giải pháp thứ nhất là “thực hiện cải cách chính sách tiền lương”). Giá trị sức lao động của cán bộ, công chức, viên chức - những người được đào tạo bài bản, có hệ thống cả chuyên môn, nghiệp vụ và cả chính trị, hành chính, trong đó nhiều người chí thú với công việc nhưng mức lương cơ sở thấp thua xa so với mức lương tối thiểu của lao động thị trường .Theo khảo sát, đánh giá của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam trong các chương trình phát thanh “Lao động và Công đoàn” trên VOV1, thì ngay từ tháng 4-2018 (khi chưa có đại dịch Covid-19) mức lương tối thiểu của lao động thị trường cũng mới chỉ bảo đảm được 80% mức sống tối thiểu của người lao động. Điều này cũng có nghĩa là mức sống tối thiểu của cán bộ, công chức (cùng tiêu dùng trên một thị trường hàng hóa với lao động thị trường) còn thấp thua hơn nhiều... Cải cách chính sách tiền lương lần này cũng phải góp phần xử lý có hiệu quả tồn tại này, khẳng định giá trị đích thực của lao động chất xám - cán bộ, công chức khu vực hành chính, sự nghiệp công.
3. Phải bảo đảm sự công bằng của mọi lao động trên cùng một vùng địa lý.
Trong một vùng địa lý thì có yếu tố khí hậu, thời tiết, môi trường, có yếu tố chỉ số giá sinh hoạt, có yếu tố cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông, đi lại...trong đó chỉ số giá sinh hoạt (CPI) là quan trọng nhất. Trong khi lao động thị trường (ở các doanh nghiệp) thì trong tiền lương của họ được tính các yếu tố này (chỉ số giá sinh hoạt, điều kiện môi trường sống) và hàng năm được điều chỉnh tăng lên; còn cán bộ, công chức thì chưa được tính đến. Sự bất hợp lý này không phải cán bộ, công chức giỏi chịu đựng kham khổ, vất vả hơn lao động thị trường, mà là thiếu sót của chính sách tiền lương, là khiếm khuyết của quá trình xây dựng chính sách, tổ chức thực thi, vận hành chính sách giữa hai khu vực chưa có sự liên thông, cân đối. Phải khẳng định rằng, mọi lao động sống, làm việc trên cùng một vùng địa lý thì đều bị tác động như nhau bởi các yếu tố tự nhiên, xã hội, môi trường, chỉ số giá cả sinh hoạt, điều kiện sống. Do đó mọi lao động (lao động thị trường, lao động là cán bộ, công chức) đang làm việc, sinh sống trên cùng một vùng địa lý đều phải được tính các yếu tố đó trong phụ cấp tiền lương.
4. Quy định mức lương cụ thể thay cho hệ số lương.
Về mặt kỹ thuật, đây là vấn đề cơ bản nhất của cải cách chính sách tiền lương mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đã xác định. Mức lương cụ thể trong các bảng lương sẽ góp phần đắc lực xử lý, giãi tỏa được nhiều tồn tại, bất cập nói trên. Để thực hiện được việc này thì ngay từ bây giờ phải bắt tay vào 4 nhóm công việc cụ thể đó là:
4.1- Thiết kế cơ cấu tiền lương mới gồm 70% lương cơ bản và 30% là các khoản phụ cấp.
4.2- Xây dựng và ban hành hệ thống thang, bảng lương mới theo vị trí việc làm, theo chức danh, chức vụ lãnh đạo thay thế bảng lương hiện hành, khi chuyển xếp lương cũ sang lương mới bảo đảm không thấp hơn lương hiện hưởng, gồm 2 bảng lương khu vực công và 3 bảng lương của các lực lượng vũ trang. Hai bảng lương khu vực công gồm: Bảng lương chức vụ (áp dụng cho cán bộ, công chức, viên chức giữ các chức vụ lãnh đạo (bầu cử và bổ nhiệm) trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp xã. Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và các chức danh nghề nghiệp viên chức áp dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo.
4.3- Xác định các yếu tố cụ thể để thiết kế bảng lương mới gồm các công việc: xác định mức tiền lương thấp nhất của công chức, viên chức; mở rộng quan hệ tiền lương làm căn cứ để xác định mức tiền lương cụ thể trong hệ thống bảng lương; hoàn thiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn...
4.4- Sắp xếp lại các khoản phụ cấp hiện hành theo hướng, những khoản phụ cấp thuộc chuyên môn, nghiệp vụ thường xuyên thì nghiên cứu đưa vào mức lương “cứng”; những việc riêng biệt thì để phụ cấp “phần mềm”. Rút gọn (tối giản) các khoản phụ cấp.
Bốn nhóm công việc trên có khối lượng vô cùng lớn và phức tạp, đặc biệt là nhóm công việc thứ 2 và thứ 3 (phải thống kê đầy đủ hàng nghìn chức vụ lãnh đạo từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã, ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp viên chức; xác định cụ thể các thang lương cấu trúc - sắp đặt trong các bảng lương; tính toán các yếu tố để hình thành các mức lương thấp nhất cho đến cao nhất trong các thang lương...) và còn khá nhiều công việc khác. Chắc chắn Ban chỉ đạo cải cách chính sách tiền lương Nhà nước và các cơ quan hữu quan phải hết sức khẩn trương mới có thể kịp thời điểm 1-7-2024...
Cải cách toàn bộ chính sách tiền lương nói chung, khu vực hành chính, sự nghiệp công nói riêng ngay sau khi vừa thoát ra khỏi đại dich COVID-19 là một quyết tâm chính trị, là sự quan tâm sâu sắc, đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với các lực lượng lao động đang hoạt động trong nền kinh tế - xã hội. Niềm vui chứa đựng cốt cách vật chất này chắc chắn sẽ có tác động tích cực nhiều mặt đến tinh thần và trách nhiệm của người lao động hưởng lương./.
Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=82673