GS.TS. Võ Tòng Xuân với ngành Nông nghiệp tỉnh Tiền Giang

Ngành Nông nghiệp tỉnh Tiền Giang trải qua mấy mươi năm thăng trầm và đã gặt hái được những thành tựu lớn. Trong thành công chung đó có một phần góp sức của GS.TS. Võ Tòng Xuân.

Chúng tôi có dịp nhiều lần phỏng vấn GS.TS Võ Tòng Xuân nhân các sự kiện liên quan đến ngành Nông nghiệp được tổ chức ở Đồng bằng sông Cửu Long và tỉnh Tiền Giang mà ông có tham dự.

GS.TS.Võ Tòng Xuân qua đời sáng ngày 19-8, ở tuổi 84. GS.TS Võ Tòng Xuân sinh năm 1940 tại An Giang. Ông là chuyên gia hàng đầu, có nhiều đóng góp trong lĩnh vực khoa học, nghiên cứu về nông nghiệp của Việt Nam, là chuyên gia nông nghiệp của Việt Nam hỗ trợ vấn đề an ninh lương thực cho các nước trong khu vực. GS.TS. Võ Tòng Xuân là Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng Lao động và cũng là nhà khoa học Việt Nam đầu tiên nhận giải VinFuture với công trình Phát minh và phổ biến giống lúa kháng rầy.

Liên quan đến ngành Nông nghiệp Tiền Giang, GS.TS Võ Tòng Xuân đã từng đánh giá rằng, Mỹ Tho - Định Tường (tiền thân của Tiền Giang) một tỉnh có nhiều nông dân thâm canh nhất Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Điều này cũng được Giáo sư khẳng định nhân sự kiện ngành Nông nghiệp Tiền Giang tổ chức kỷ kiệm 40 năm hình thành và phát triển. Nhân sự kiện này, GS.TS. Võ Tòng Xuân cũng đã kể lại một số chi tiết mà ông đã gắn bó với ngành Nông nghiệp Tiền Giang.

GS.TS Võ Tòng Xuân (thứ 3 từ trái sang) và ông Hai Chung (thứ 2 từ trái sang) tại Lễ kỷ niệm 40 năm ngành Nông nghiệp Tiền Giang.

GS.TS Võ Tòng Xuân (thứ 3 từ trái sang) và ông Hai Chung (thứ 2 từ trái sang) tại Lễ kỷ niệm 40 năm ngành Nông nghiệp Tiền Giang.

Theo GS. TS Võ Tòng Xuân, trong quá trình tham gia đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu ứng dụng về nông nghiệp cho miền Nam Việt Nam từ khi ông rời Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI, Philippines) về Đại học Cần Thơ năm 1971, ông nhận thấy trong số các tỉnh ĐBSCL, Mỹ Tho (nay là Tiền Giang) là tỉnh có nhiều nông dân thâm canh và nhạy bén tiếp thu nhanh nhất những phát minh kỹ thuật nông nghiệp.

Một trong những dẫn chứng là khi Thạc sĩ Jose Ona của IRRI, Philippin bắt đầu tham gia Chương trình lúa gạo do Cơ quan Phát triển Quốc tế (USAID) của Hoa Kỳ tại Sài Gòn tài trợ từ năm 1966, đúng lúc IRRI phổ biến giống lúa IR8 và IR5. Anh Ona đã đem hai giống này sang miền Nam Việt Nam đóng gói với phân bón và thuốc trừ sâu bệnh phòng hờ. Lúc này USAID tài trợ cho Viện Khảo cứu của Bộ Canh nông (cũ) xây Trung tâm Nghiên cứu lúa tại Long Định (tiền thân của của Trường Trung học Nông nghiệp Long Định, sau đó trở thành Viện Cây ăn quả miền Nam - SOFRI). Phái đoàn Nông nghiệp Đài Loan (Chinese Agricultural Technical Group - CATG) cũng tham gia cùng USAID tại Trung tâm Long Định, làm cho Mỹ Tho trở thành trung tâm nông nghiệp của miền Tây, trước khi Trung tâm Bình Đức tại Long Xuyên được thành lập từ năm 1971.

Theo GS.TS. Võ Tòng Xuân, nông dân Mỹ Tho nhanh chóng phát huy giống mới, lấy tên mới là Thần Nông (TN) 8 và 5. Giống lúa mới có tưới nước chủ động cho năng suất 5 tấn/ha so với giống lúa mùa địa phương sống bằng nước trời chỉ đạt 2 - 2,5 tấn/ha. Cũng trong giai đoạn này, máy “đuôi tôm” được phát triển nhanh chóng từ một sáng kiến vào năm 1962 của một thợ cơ khí có lẽ ở Cai Lậy (trước đó đã làm việc trên tàu xáng) đã quay ngược chân vịt của máy ghe đò để cho hút nước lên làm máy bơm nước vào ruộng (Theo Báo cáo của Robert Sansom cho USAID, 1963).

Nhờ có kỹ thuật đồng bộ trồng giống lúa mới và có máy bơm nước, nhiều nông dân phấn khởi áp dụng giống lúa mới, giúp diện tích tăng cao: Từ 500 ha lúa TN trồng đầu tiên năm 1967, cả miền Nam diện tích lúa TN tăng lên 549.000 ha năm 1974. Với kỹ thuật giống lúa mới, nông dân phải bơm nước, áp dụng phân bón và thuốc trừ sâu bệnh. Lượng phân bón và thuốc trừ sâu bệnh nhập khẩu từ đó cũng tăng nhanh chóng, đến năm 1973, miền Nam Việt Nam đã nhập hơn 372.000 tấn phân phần lớn là 16-16-8 và Ure và 2.560 tấn nông dược nguyên chất để làm ra khoảng 50.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật.

Thế nhưng, với giống lúa ngắn ngày năng suất cao TN8 trồng rộng rãi với nhiều phân bón vô cơ, đồng ruộng lúa đã bị nhiễm rầy nâu bắt đầu từ năm 1971 và bộc phát từ 1972. Theo GS.TS Võ Tòng Xuân, chúng tôi đã sớm phát hiện và tập hợp một số giống lúa kháng rầy nâu từ IRRI tại Đại học Cần Thơ, đã chọn được giống IR26 có khả năng kháng rầy nâu rất mạnh. Đồng thời, Trung tâm Long Định cũng chọn được hai giống TN73 - 1 và TN73 - 2. Giống IR26 được nhân ra và biếu không cho khán giả nghe Chương trình Gia đình Bác Tám trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Nạn rầy nâu được chặn đứng nhờ mấy giống kháng rầy này.

 GS.TS Võ Tòng Xuân trả lời phỏng vấn báo chí tại Festival lúa gạo lần thứ I được tổ chức tại tỉnh Hậu Giang vào năm 2009.

GS.TS Võ Tòng Xuân trả lời phỏng vấn báo chí tại Festival lúa gạo lần thứ I được tổ chức tại tỉnh Hậu Giang vào năm 2009.

Sau khi hòa bình thống nhất, diện tích trồng lúa cao sản ngắn ngày được phát triển rất mạnh do phong trào thủy lợi được Nhà nước khuyến khích khắp nơi. Đến vụ đông xuân 1976 - 1977, rầy nâu lại xuất hiện trước nhất tại Tân Châu (An Giang) rồi theo gió lan qua Đồng Tháp và Tiền Giang. GT.TS. Võ Tòng Xuân và TS. Nguyễn Văn Huỳnh đi khảo sát và bắt rầy về nghiên cứu và xác định đây là rầy nâu biotype 2. Lúc này, mặc dù Việt Nam chưa nối lại bang giao với Philippines, vào tháng 12-1976, Giáo sư vẫn thử gửi điện tín sang Viện IRRI khẩn báo sự biến hóa của rầy nâu sang biotype mới. Rất may, IRRI nhận được điện tín và tức tốc TS Gurdev S. Khush và TS Ronnie Coffman đã gửi cho Giáo sư qua đường bưu điện máy bay, vào giữa tháng 1-1977, 5 bao thơ mỗi bao đựng 5 grams giống IR32, IR34, IR36, IR38 có mang gen kháng rầy nâu biotype 2.

Lúc này, GS.TS. Võ Tòng Xuân và TS. Nguyễn Văn Huỳnh tức tốc lo xác định giống nào tốt nhất để nhân giống phổ biến ngay, vì lúc này hàng ngàn gia đình nông dân Tiền Giang, Long An, Bến Tre, An Giang đang bị tán gia bại sản vì nạn rầy nâu tàn phá hết đồng ruộng của họ, tiền của đem đi mua thuốc trừ rầy nâu nhưng tiền mất tật mang. Đại nạn rầy nâu đã mang đại họa cho nông dân các tỉnh trồng lúa Thần Nông. Chúng tôi đã tìm ra giống IR36 là giống tốt nhất, cho nhân tức tốc, dùng kỹ thuật cấy 1 tép/buội, sau hai vụ đã được khoảng 2.000 kg lúa giống. Trường Đại học Cần Thơ đã đóng cửa trường trong hai tháng để cho sinh viên mang giống lúa IR36 kháng rầy đi khắp nơi nhân giống nhanh cho bà con nông dân có giống để trồng.

Song song lúc ấy, qua sự giới thiệu của Kỹ sư Đỗ Văn Chuông, GS.TS Võ Tòng Xuân đã về xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, gặp ông Võ Văn Chung (Hai Chung) bàn tính kế hoạch nhân giống IR36 tại ruộng nhà anh cho nhanh, cũng bằng kỹ thuật cấy 1 tép/buội. GS.TS Võ Tòng Xuân liên tục đưa sinh viên Đại học Cần Thơ về nhà ông Hai Chung để từ đó tỏa ra các huyện trong tỉnh Tiền Giang, qua Bến Tre và Long An.

Như vậy, nhà ông Hai Chung là đại bản doanh của chiến dịch chặn đứng nạn rầy nâu bằng giống lúa kháng rầy IR36. Ông Hai Chung cho bà con nông dân khắp nơi đến đổi lúa thịt lấy lúa kháng rầy với cam kết là sẽ cho nông dân khác cũng đổi như thế sau khi thu hoạch. Chiến dịch chống rầy nâu bằng IR36 đã thành công trước tiên tại Tiền Giang, nhờ sự tham gia của đông đảo nông dân và sự yểm trợ nhiệt tình của cán bộ lãnh đạo và cán bộ nông nghiệp toàn tỉnh.

TT

Nguồn Ấp Bắc: http://baoapbac.vn/xa-hoi/202408/gsts-vo-tong-xuan-voi-nganh-nong-nghiep-tinh-tien-giang-1018845/