Hà Nội: Đẩy mạnh chuyển đổi số toàn chuỗi cung ứng để bảo đảm an toàn thực phẩm

Các tỉnh, thành phố luôn tiêu thụ lượng lớn nông sản mỗi ngày. Nhưng, bài toán kiểm soát chất lượng và truy xuất nguồn gốc vẫn còn nhiều vướng mắc. Các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ đang 'gồng mình' với chi phí chứng nhận, trong khi nông sản sạch khó cạnh tranh với hàng trôi nổi.

Hà Nội đang đẩy mạnh chuyển đổi số và liên kết chuỗi trong truy xuất nguồn gốc nông sản

Hà Nội đang đẩy mạnh chuyển đổi số và liên kết chuỗi trong truy xuất nguồn gốc nông sản

Áp lực an toàn thực phẩm

Ông Nguyễn Thành Trung, Phó Trưởng phòng Chất lượng và Phát triển thị trường (Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội) cho biết, Hà Nội là một trong ba thành phố lớn của cả nước tiêu thụ khối lượng nông, lâm, thủy sản khổng lồ, với mạng lưới phân phối hiện đại, đồng bộ.

Dù là Thủ đô, Hà Nội vẫn có diện tích sản xuất nông nghiệp rất lớn với hơn 155.000 ha trồng lúa, 33.000 ha trồng rau, 24.000 ha cây lâu năm, 1,25 triệu con lợn và 36 triệu con gia cầm, đứng đầu cả nước. Tuy nhiên, sản lượng nông sản tự sản xuất mới chỉ đáp ứng 20-70% nhu cầu của hơn 10 triệu dân. Phần còn lại đến từ các tỉnh, thành phố lân cận và hàng nhập khẩu.

“Thị trường Hà Nội có nguồn cung đa dạng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro về chất lượng, an toàn thực phẩm. Việc kiểm soát nguồn gốc hàng hóa trở thành nhiệm vụ then chốt”, ông Trung nhấn mạnh.

Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ vẫn đang “loay hoay” trong quá trình truy xuất nguồn gốc sản phẩm, khâu được xem là tấm “giấy thông hành” để nông sản sạch đi xa hơn.

Ông Hoàng Văn Thám - Chủ tịch Hợp tác xã rau quả sạch Chúc Sơn (phường Chương Mỹ, Hà Nội) cho biết, dù hợp tác xã đã triển khai truy xuất nguồn gốc cùng nhiều đơn vị, nhưng việc hoàn thiện hồ sơ, tiêu chuẩn kỹ thuật vẫn “rườm rà” và tốn kém.

“Chi phí cho truy xuất, chứng nhận, thuế phí quá lớn trong khi giá bán vào siêu thị, trường học lại thấp khiến nông sản sạch khó cạnh tranh với hàng trôi nổi ngoài chợ. Đây là cuộc chiến không cân sức”, ông Thám chia sẻ.

Theo ông Thám, để đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, hợp tác xã rất cần đội ngũ kỹ sư có chuyên môn, song nguồn nhân lực này khó thu hút do thu nhập thấp. Cùng với đó, việc liên thông dữ liệu truy xuất giữa các cổng thông tin của các bộ, ngành và hệ thống quốc gia vẫn còn nhiều vướng mắc, gây khó cho người sản xuất.

Bà Nguyễn Thị Mai, Giám đốc Công ty Cổ phần Sản xuất và Kinh doanh Thực phẩm an toàn Vinh Hà (xã Đại Xuyên, Hà Nội), cũng chung nỗi lo.

“Chúng tôi liên kết với 40 hộ nông dân, bảo đảm ‘vùng trồng thật, sản phẩm thật’, nhưng chi phí duy trì hệ thống kiểm soát chất lượng, tem nhãn và chứng nhận an toàn lại quá lớn so với lợi nhuận mỏng của rau màu”, bà Mai nói.

Nếu tính đủ chi phí, giá rau sạch sẽ cao hơn nhiều so với rau thường, khiến sản phẩm khó đến tay người tiêu dùng. Bà Mai đề nghị Nhà nước cần hỗ trợ vốn, giảm phí chứng nhận, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ cao, xây dựng nhà màng, hệ thống sơ chế, bảo quản để kiểm soát chất lượng ngay từ gốc thay vì chỉ xử lý “phần ngọn” bằng kiểm tra, xử phạt.

“Chúng ta nói nhiều đến hỗ trợ theo chuỗi giá trị thì cần làm thật, từ người sản xuất đến khâu phân phối, tiêu thụ. Nếu hỗ trợ đơn lẻ, chuỗi sẽ đứt gãy, khó tạo bước đột phá cho nông nghiệp sạch”, bà Mai đề xuất.

Cần cơ chế linh hoạt

Ở góc độ phân phối, bà Đàm Thị Dịu, Giám đốc Công ty Kinh Bắc (xã Sơn Đồng, Hà Nội) cho rằng, việc truy xuất nguồn gốc đối với sản phẩm đặc sản vùng miền, nhỏ lẻ là thách thức lớn.

“Nhiều mặt hàng chúng tôi chỉ thu mua được vài lạng đến vài ký mỗi lần, nên phải qua hộ kinh doanh nhỏ, rất khó để truy xuất chi tiết từng khâu”, bà Dịu chia sẻ.

Theo bà Dịu, công tác hậu kiểm chứng nhận VietGAP mới chỉ dừng ở cấp vùng hoặc nhóm hộ, chưa có công cụ minh chứng rõ ràng cho từng hộ sản xuất. Doanh nghiệp vì thế gặp khó khi muốn chứng minh tính minh bạch của hàng hóa.

Từ thực tế này, bà Dịu kiến nghị xây dựng cơ chế xác nhận linh hoạt, phù hợp với sản xuất nhỏ lẻ ở cấp xã, vừa bảo đảm minh bạch vừa không gây quá tải thủ tục cho người dân. Khi có khung pháp lý rõ ràng, doanh nghiệp sẽ tự tin hơn trong phân phối và quảng bá sản phẩm đặc sản địa phương.

Đồng quan điểm, ông Hoàng Văn Thám đề xuất Hà Nội và Trung ương cần tạo cơ chế hỗ trợ kết nối các hợp tác xã với nền tảng số quốc gia, giúp truy xuất nguồn gốc minh bạch và thuận tiện hơn. Đồng thời, cần siết chặt kiểm soát thị trường, ngăn chặn hàng hóa không rõ nguồn gốc và sản phẩm nhập khẩu kém chất lượng, nhằm bảo vệ người tiêu dùng và doanh nghiệp làm ăn chân chính.

Theo bà Trần Thị Tiên Thủy, đại diện Trung tâm Mã số, mã vạch quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ), truy xuất nguồn gốc điện tử là giải pháp hữu hiệu, giúp doanh nghiệp kiểm soát, quản trị sản phẩm, đồng thời hỗ trợ nghiên cứu thị trường, thương mại điện tử và kết nối cung cầu.

“Giải pháp số hóa không chỉ giúp khẳng định chất lượng, mà còn bảo vệ người tiêu dùng, nâng cao uy tín sản phẩm Việt”, bà Thủy khẳng định.

TS. Phan Thị Phương Thảo (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) cho rằng, phát triển chuỗi sản xuất, kinh doanh nông - lâm - thủy sản theo hướng an toàn, minh bạch, bền vững là xu thế tất yếu, tạo nền tảng cho tăng trưởng xanh và hội nhập quốc tế.

Theo bà Phương Thảo, Việt Nam đang có thị trường thực phẩm đầy tiềm năng với doanh thu ngành chế biến năm 2024 ước đạt 79 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản 60-61 tỷ USD. Tuy nhiên, chất lượng và an toàn thực phẩm vẫn là “điểm nghẽn” khi sản phẩm chưa ổn định, tỷ lệ cơ sở đạt chứng nhận còn thấp, vi phạm an toàn vẫn ở mức cao và tổn thất sau thu hoạch lớn.

“Giá trị gia tăng chủ yếu nằm ở khâu chế biến và phân phối, trong khi người nông dân, nơi tạo ra giá trị gốc lại hưởng ít nhất”, TS.Thảo nhận định và đề xuất phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp theo ba trụ cột là an toàn - chất lượng - truy xuất được (áp dụng VietGAP, GlobalGAP, sản xuất hữu cơ, ứng dụng công nghệ số); bền vững - tuần hoàn - giảm phát thải (tận dụng phụ phẩm nông nghiệp, sản xuất năng lượng sinh học, giảm chất thải); liên kết chuỗi giá trị “4 nhà” (nông dân - doanh nghiệp - nhà khoa học - Nhà nước, với hợp tác xã kiểu mới làm hạt nhân kết nối).

Theo bà Thảo, chính sách Nhà nước cần tập trung vào tín dụng xanh, đất đai, chuyển đổi số và truyền thông, trong khi doanh nghiệp phải đầu tư công nghệ chế biến sâu, phát triển thương hiệu, tem truy xuất rõ ràng.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Tạ Văn Tường khẳng định: “Liên kết chuỗi là con đường tất yếu trong truy xuất nguồn gốc. Chúng tôi đặt mục tiêu xây dựng chuỗi sản xuất minh bạch, khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế của Thủ đô”.

Ông Tường cũng cho biết Hà Nội đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong toàn bộ chuỗi sản xuất - chế biến - tiêu thụ, coi đây là giải pháp trọng tâm để bảo đảm an toàn thực phẩm. Song song đó là tăng cường hậu kiểm, giám sát và xử lý nghiêm vi phạm, củng cố niềm tin người tiêu dùng và nâng cao uy tín cho nông sản của Thủ đô.

Hải Yến

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/ha-noi-day-manh-chuyen-doi-so-toan-chuoi-cung-ung-de-bao-dam-an-toan-thuc-pham-172419.html