Hai tài năng trong một gia đình

Cuộc đời và tác phẩm của nhạc sĩ Nhật Lai cùng người em ruột - nhà thơ Nguyễn Mỹ với Cuộc chia ly màu đỏ vang danh, là trường hợp vô cùng độc đáo của nền văn nghệ Việt Nam đương đại.

Nhạc sĩ Nhật Lai (bên trái) và nhạc sĩ Lư Nhất Vũ tại Sài Gòn, năm 1976. Ảnh tư liệu

Nhạc sĩ Nhật Lai (bên trái) và nhạc sĩ Lư Nhất Vũ tại Sài Gòn, năm 1976. Ảnh tư liệu

1 Tình cờ mới đây, tôi gặp một người cháu ruột gọi nhạc sĩ Nhật Lai là cậu, đang sống ở TP Tuy Hòa.

Đó là ông Phạm Kỳ Hòa, nguyên Phó Chánh văn phòng Tỉnh ủy Phú Yên; mẹ ông Hòa là em ruột của nhạc sĩ Nhật Lai và nhà thơ Nguyễn Mỹ. Từng nhiều năm sống gần gũi với nhạc sĩ Nhật Lai lúc ở Hà Nội, ông Hòa hồi tưởng về người cậu nổi tiếng của mình: “Cậu Nhật Lai rất bình dân, nhiều người Hà Nội lúc đó mới gặp cũng không biết cậu là một nhạc sĩ nổi tiếng. Căn nhà tập thể của gia đình cậu có vách ngăn bằng cây lồ ô rồi trát vữa, lợp bằng lá cọ; trong nhà chỉ có cây đàn piano của Nhật là giá trị nhất.

Lúc tôi ra Hà Nội thì vợ đầu của cậu là nghệ sĩ múa Châu Ngọc Lệ - người Khmer - đã mất, cậu đang sống với người vợ thứ hai là Hồ Thị Kha Y - người Pakô. Mợ Kha Y tốt nghiệp đại học thanh nhạc tại Rumani, sau là giảng viên Trường Văn hóa Nghệ thuật Gia Lai…”.

Nhạc sĩ Kpa Ylăng, một chuyên gia về âm nhạc Tây Nguyên, người học trò, người em thân thiết với nhạc sĩ Nhật Lai, cho hay: “Cố nhạc sĩ Nhật Lai đã để lại những tác phẩm nghệ thuật vô cùng giá trị đối với Tây Nguyên nói riêng, âm nhạc Việt Nam nói chung. Ông đã đưa cái hừng hực sôi động, cái trữ tình, mượt mà của âm nhạc Tây Nguyên lên sân khấu ca múa nhạc. Nhạc sĩ Nhật Lai có những đóng góp hiếm thấy trong nền âm nhạc Việt Nam...”.

Theo Nghệ sĩ Nhân dân (NSND) Cao Hữu Nhạc, nguyên Giám đốc Nhà hát Ca múa nhạc dân gian Sao Biển, nhiều người mới biết nhạc sĩ Nhật Lai ở lĩnh vực sáng tác ca khúc, chưa có điều kiện tiếp cận toàn diện về sự nghiệp của ông, nhất là trong lĩnh vực khí nhạc - giao hưởng và nghiên cứu, khai thác giá trị âm nhạc Tây Nguyên.

Nhạc sĩ Nhật Lai tên thật là Nguyễn Tuân, sinh ngày 12/5/1931, tại thôn Trung Lương, xã An Nghiệp, huyện Tuy An, mất ngày 5/1/1987, tại Hà Nội. Ông đã để lại cho đời 18 vở nhạc kịch - ca kịch, 6 tác phẩm khí nhạc, 2 nhạc phim và hơn 40 ca khúc. Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, năm 2002.

Nhà thơ Nguyễn Mỹ sinh ngày 21/2/1935 cũng tại xã An Nghiệp; 16 tuổi vào bộ đội, ra Bắc công tác tại Nhà xuất bản Phổ Thông. Năm 1968, ông trở lại chiến trường miền Nam chiến đấu và hy sinh ngày 16/5/1971 tại xã Trà Dơn, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. Tác phẩm chính: Trận Quán Cau (bút ký, 1954), Sắc cầu vồng (thơ, 1980, in chung với Nguyễn Trọng Định), Thơ Nguyễn Mỹ (thơ, 1993). Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, năm 2007.

“Nhạc sĩ Nhật Lai là một trong những người Việt Nam có công đầu trong việc khai thác, phát huy những giá trị đặc sắc của âm nhạc các dân tộc Tây Nguyên. Nhật Lai là một trong những người đầu tiên viết và đầu tư bài bản trên lĩnh vực giao hưởng ở Việt Nam. Nhiều tác phẩm khí nhạc của Nhật Lai đã được biểu diễn, được đánh giá cao trong và ngoài nước. Ông còn có những đóng góp lớn trong việc xây dựng và đào tạo lực lượng cho Đoàn văn công Tây Nguyên trong những năm chống Mỹ, cứu nước. Có lẽ thành tựu chính của Nhật Lai là trên lĩnh vực khí nhạc nên ít người biết đến ông so với một số nhạc sĩ khác…”, NSND Cao Hữu Nhạc nói.

Riêng ca khúc Hà Tây quê lụa Nhật Lai viết năm 1965 là trường hợp đặc biệt thú vị:

Bóng chiếc thoi đưa ánh mắt

long lanh

Trời đất Hà Tây tay em dệt lụa

Sữa trắng Ba Vì, thóc vàng

khu cháy

Hồn thơ Nguyễn Trãi

dệt thành vần…

Khi Hà Tây sáp nhập về Hà Nội, trong hành trang tinh thần của nhiều người con quê lụa nay về Tràng An có những giai điệu diết da của Hà Tây quê lụa, dẫu không còn vang lên hằng ngày trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Tây như thuở nào qua giọng hát sâu lắng của nghệ sĩ Quốc Hương.

Theo đánh giá của giới nghiên cứu, Hà Tây quê lụa là một tác phẩm đặc sắc của nhạc sĩ tài hoa Nhật Lai, nên nó đã và sẽ có một đời sống riêng lâu bền.

Về ca khúc này, ông Phạm Kỳ Hòa kể một kỷ niệm: “Thật tình, tôi không thể cảm nhận hết sức mạnh của âm nhạc nhưng có hồi đến Hà Tây, biết tôi là người Phú Yên, lại là cháu của nhạc sĩ Nhật Lai, nhiều người đã coi tôi như người nhà. Bài hát ấy đã đi vào lòng người Hà Tây sâu sắc không thể tả. Tôi cảm nhận Hà Tây quê lụa cùng nhiều tác phẩm khác của cậu Nhật Lai sẽ sống mãi với thời gian…”.

Một văn nhân ở Hà Nội nói rằng bài hát Hà Tây quê lụa góp phần để người ta nhớ mãi một địa danh, một vùng đất in đậm dấu ấn văn hóa. Nhạc sĩ Nhật Lai là một “người khổng lồ” của nhạc giao hưởng Việt Nam; mảng ca khúc chỉ là “bề nổi của tảng băng trôi” trong sự nghiệp sáng tác của Nhật Lai, một người Hà Nội - Hà Tây thứ thiệt.

2So với nhạc sĩ Nhật Lai, người em kề là nhà thơ Nguyễn Mỹ được nhiều người biết đến hơn bởi bài thơ Cuộc chia ly màu đỏ được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, liên tục được ngâm trong các chương trình nghệ thuật và có mặt trong các tuyển thơ.

Nhà thơ Nguyễn Mỹ

Thạc sĩ văn chương Bùi Văn Thành, Chi hội trưởng Chi hội Văn học thuộc Hội Văn học Nghệ thuật Phú Yên, nguyên Phó Giám đốc Sở VHTT&DL cho biết, trong luận văn Ám ảnh sắc màu trong thơ Nguyễn Mỹ, ông đã cất công sưu tầm nhiều nguồn tư liệu và tìm được cơ bản tất cả thơ của Nguyễn Mỹ là khoảng 50 bài.

Theo ông Bùi Văn Thành, Nguyễn Mỹ làm thơ không nhiều nhưng chắt lọc, có ý thức cách tân vượt trội so với thế hệ thơ cùng thời, thế nhưng sự nghiệp còn dang dở thì ông hy sinh khi mới 35 tuổi.

Sự tài hoa và đóng góp của nhà thơ Nguyễn Mỹ đã được nhiều bậc thượng thừa trong làng văn nghệ nhìn nhận, trân trọng. Nhiều người xếp ông trong nhóm những nhà thơ “hiện tượng một bài”.

Thế nhưng chỉ với Cuộc chia ly màu đỏ cũng đủ khắc họa chân dung, tầm vóc một nhà thơ ở sự lan tỏa, cách tân, dũng cảm đi trước thời đại và sức sống của tác phẩm.

Nhà thơ Nguyễn Mỹ đã dùng bông hoa chuối làm biểu tượng cho sự xa cách trong tình yêu. Cái đẹp dung dị của màu đỏ quê mùa đã vào thơ ông một cách tự nhiên mà sang trọng nhường kia. Cũng như ý tưởng “Khi Tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau” đã được thi sĩ phổ vào thơ tình thật mềm mại.

Màu đỏ của cuộc chia ly đã trở thành điều cao cả, thiêng liêng mà một thời vạn vạn người trẻ đã làm được: Chiến đấu vì đất nước, hy sinh tình riêng vì nghĩa lớn. Sức ngân của tứ thơ “màu đỏ chia ly” mang tư tưởng thời đại, nhưng xuất phát từ trái tim yêu đương cháy bỏng và trở về trái tim yêu đương cháy bỏng nên “màu đỏ ấy theo đi” tâm hồn bao thế hệ.

Viết về chuyện chia tay ra trận vào năm 1964, giữa lúc cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ của dân tộc ta đang hồi cam go, nhưng bài thơ không hề “cương” mà nhuần nhị một tình yêu quê hương đất nước thuần khiết và một cảm xúc yêu thương dạt dào.

Thi sĩ đã sống trọn với tứ thơ đặc sắc, đôi vợ chồng trẻ sống trọn trong nhau, cũng như Tổ quốc sống trọn trong họ nên “màu đỏ ấy” của Nguyễn Mỹ sống trọn trong dặm dài thi ca Việt Nam...

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Mỹ không chỉ có Cuộc chia ly màu đỏ, mà còn nhiều bài thơ mang xu hướng cách tân mãnh liệt, cùng với nhiều bút ký chiến trường đặc sắc. Giống như người anh tài ba Nhật Lai, Nguyễn Mỹ đã sống và sáng tạo đến hơi thở cuối cùng của mình, như câu thơ ông viết:

Anh lang bạt đi tìm anh từ dạo ấy

Ở trong đất và ở trong máu chảy…

ĐÀO ĐỨC TUẤN

Nguồn Phú Yên: https://baophuyen.vn/89/317267/hai-tai-nang-trong-mot-gia-dinh.html