Khẩn trương tìm nguồn vật liệu đắp đường cho cao tốc Bắc-Nam giai đoạn 2
12 dự án thành phần cao tốc Bắc-Nam giai đoạn 2 hiện đang chậm tiến độ vì thiếu vật liệu cát và đất đắp đường.
Theo báo cáo của Bộ GTVT, Dự án đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía đông giai đoạn 2021-2025 (Dự án - PV) đến nay đã bàn giao mặt bằng được 667,66/721 km, đạt 92,6%. Trong đó, một số tỉnh còn thấp hơn so với mặt bằng chung như Quảng Bình bàn giao 105,71/124,2 km, đạt 85%; tỉnh Quảng Trị đã bàn giao 24,83/32,5 km, đạt 76%. Tỉ lệ mặt bằng có thể triển khai thi công 630,5/721 km, đạt 87,4%.
Chậm so với kế hoạch vì thiếu cát và đất đắp
Bộ GTVT đánh giá, 12 dự án thành phần cao tốc Bắc-Nam được khởi công từ ngày 1/1/2023, sau gần 11 tháng, sản lượng thi công đạt 11.305/95.937,6 tỷ đồng, tương đương 11,78% giá trị hợp đồng, chậm 1,29% so kế hoạch. Nguyên nhân chủ yếu do thiếu nguồn vật liệu cát và đất đắp.
Cụ thể, đối với 10 dự án thành phần đoạn từ tỉnh Hà Tĩnh - Khánh Hòa, tổng nhu cầu cát cần khoảng 9,67 triệu m3, trong đó 4,95 triệu m3 được sử dụng từ 77 mỏ đang khai thác, đáp ứng về trữ lượng (10,69 triệu m3), nhưng chưa đáp ứng về công suất (đang khai thác 1,66 triệu m3/năm).
Với 4,72 triệu m3 được sử dụng từ 14 mỏ mở mới có trữ lượng khoảng 11,76 triệu m3. Hiện nay, các nhà thầu đã trình hồ sơ 13/14 mỏ, các tỉnh đã xác nhận bản đăng ký khối lượng khai thác 10/13 mỏ, đã khai thác được 5/10 mỏ với trữ lượng khoảng 2 triệu m3.
Như vậy, để đáp ứng nhu cầu cát cho dự án, Bộ GTVT cho rằng cần khẩn trương nâng công suất các mỏ cát đang khai thác như đối với khu vực đồng bằng sông Cửu Long; sớm hoàn thiện thủ tục thuê đất của 5 mỏ mở mới đã được xác nhận bản đăng ký khối lượng để đưa vào khai thác.
Về nguồn đất đắp, dự án đoạn Hà Tĩnh-Khánh Hòa cần khoảng 47,09 triệu m3, trong đó 5,14 triệu m3 được sử dụng từ 21 mỏ đang khai thác đáp ứng trữ lượng (khoảng 8,52 triệu m3) và công suất (khoảng 2,54 triệu m3/năm); còn lại 41,95 triệu m3 được sử dụng từ 71 mỏ mới đáp ứng trữ lượng (khoảng 61,37 triệu m3). Hiện, các nhà thầu đã trình 56/74 hồ sơ mỏ, các tỉnh đã xác nhận bản đăng ký khối lượng khai thác 38/56 mỏ, đã khai thác được 24/38 mỏ với trữ lượng khoảng 21 triệu m3.
Nhằm đáp ứng nhu cầu đất đắp, Bộ GTVT cho rằng cần sớm hoàn thành các thủ tục khai thác của 14 mỏ đất đã được xác nhận bản đăng ký nhưng các mỏ này vẫn còn vướng mắc về thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng rừng.
Đơn cử, các chủ sở hữu đưa ra giá cao hơn nhiều so với giá Nhà nước bồi thường hiện nay như: Mỏ Hoàng Đàm ở Quảng Bình 450 triệu đồng/ha đất trồng keo, mỏ Vĩnh Sơn 5 ở Quảng Trị 1,4 tỷ đồng/ha đất trồng keo, mỏ Phú Ân ở Phú Yên 1,2 tỷ đồng/ha đất trồng keo, ở Quảng Ngãi mỏ Mễ Sơn 450 triệu đồng/ha, mỏ Chuông Ổi 1,4 tỷ đồng/ha, mỏ Núi Thị 1,8 tỷ đồng/ha... các mức giá này đều cao hơn so với giá Nhà nước khoảng trên dưới 300 triệu đồng/ha.
Bộ GTVT hiện đang đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường cần có hướng dẫn cụ thể các vấn đề liên quan đến việc thỏa thuận bồi thường để khai thác mỏ vật liệu xây dựng phục vụ dự án; giảm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng rừng đối với khu vực có rừng. Cơ quan này cho rằng, thực tiễn nhà thầu khai thác vật liệu không ảnh hưởng đến mục đích sử dụng đất, mục đích sử dụng rừng, sau khi thuê đất để khai thác nhà thầu phải thực hiện cải tạo, phục hồi môi trường, bàn giao mỏ và toàn bộ diện tích đất để địa phương quản lý.
Tìm nguồn cung cát cho 2 đoạn khu vực đồng bằng sông Cửu Long
Đối với 2 dự án thành phần đoạn từ thành phố Cần Thơ-Cà Mau, nguồn cát đắp nền cần khoảng 18,4 triệu m3.
Trong đó, tỉnh An Giang đã thống nhất bố trí đủ cho dự án 7 triệu m3. Đến nay, địa phương đã xác định được 6,69 triệu m3; sẽ hoàn thành thủ tục để khai thác 3,19 triệu m3 trong năm 2023, cơ bản đáp ứng yêu cầu; còn lại chưa xác định nguồn cung, tỉnh tiếp tục triển khai các thủ tục trong năm nay.
Tỉnh Đồng Tháp đã thống nhất bố trí đủ cho dự án 7 triệu m3. Đến nay, tỉnh đã xác định được 4,7 triệu m3; sẽ hoàn thành thủ tục để khai thác 3,3 triệu m3 trong tháng 11/2023, cơ bản đáp ứng yêu cầu. Đối với 2,3 triệu m3 cát còn lại, địa phương tiếp tục xác định nguồn cung và triển khai thủ tục trong năm nay.
Tỉnh Vĩnh Long đã có chủ trương cung ứng cho dự án khoảng 3,35 triệu m3 tại 4 vị trí mỏ và cam kết đẩy nhanh thủ tục để có thể bàn giao 1 mỏ cho nhà thầu khai thác (khoảng 0,75 triệu m3) trong tháng 10 và bảo đảm phân bổ đủ nguồn cát cho nhu cầu năm 2023; đối với 1,65 triệu m3 cát còn lại, tỉnh tiếp tục xác định nguồn cung và triển khai thủ tục trong năm nay.
UBND các tỉnh cũng đã thống nhất triển khai đồng thời các thủ tục (khảo sát, phê duyệt trữ lượng, đánh giá tác động môi trường...) để rút ngắn thời gian, sớm đưa các mỏ vào khai thác và cam kết bố trí đủ nguồn cát theo chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ đã giao, hoàn thành các thủ tục cấp mỏ trong năm 2023.
Nhà thầu phối hợp chặt chẽ với địa phương
Trên cơ sở đó, Bộ GTVT yêu cầu ban QLDA, nhà thầu thi công khẩn trương làm việc với địa phương thực hiện các thủ tục khai thác mỏ vật liệu xây dựng, bãi đổ thải bảo đảm đủ nhu cầu dự án, hoàn thành trong tháng 10 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Với mặt bằng được bàn giao, nguồn cung vật liệu xây dựng, điều kiện thời tiết... Ban QLDA chỉ đạo tư vấn, nhà thầu rà soát, chuẩn xác lại tiến độ thi công tổng thể, chi tiết và có kế hoạch triển khai phù hợp; chủ động, linh hoạt tổ chức thi công trên công trường, không phụ thuộc vào mặt bằng và nguồn vật liệu xây dựng.
"Bộ GTVT kiên quyết xử lý các nhà thầu yếu kém, vi phạm tiến độ quy định hợp đồng, đặc biệt là nhà thầu phụ", Bộ GTVT khẳng định.
Bộ cũng yêu cầu các ban QLDA chỉ đạo nhà thầu thi công bổ sung thêm các mũi để thi công ngay công trình cầu, hầm chui dân sinh, cống, gia cố mái ta luy... phù hợp với tiến độ thi công nền đường, bảo đảm đồng bộ, liên tục trên toàn tuyến; thi công xong cần thực hiện công tác thanh thải để bảo đảm dòng chảy, hạn chế ảnh hưởng của mưa lũ đến an toàn công trình.
Cục Quản lý đầu tư xây dựng có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với Cục Đường cao tốc Việt Nam theo dõi, đôn đốc các chủ đầu tư chỉ đạo nhà thầu triển khai thực hiện dự án bảo đảm chất lượng, tiến độ; phối hợp cùng các đơn vị có liên quan rà soát, xử lý các khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án, nhà đầu tư, nhà thầu, kịp thời tổng hợp báo cáo bộ các nội dung vượt thẩm quyền.