Khi trầm tích văn hóa bước vào ngôn ngữ điện ảnh

Giữa dòng chảy đô thị hóa của Thanh Hóa hôm nay, làng cổ Đông Sơn vẫn giữ được vẻ lặng trầm của một vùng đất từng sản sinh nền văn minh rực rỡ của lịch sử Việt Nam.

bộ phim tài liệu “Đông Sơn - Miền ký ức” do Điện ảnh Quân đội nhân dân sản xuất

bộ phim tài liệu “Đông Sơn - Miền ký ức” do Điện ảnh Quân đội nhân dân sản xuất

Làng cổ bên sông Mã: Không gian văn hóa của ký ức Việt

Từ những triền đất bên sông Mã, trống đồng, thạp đồng, mũi giáo, đồ gốm… đã kể câu chuyện của một cộng đồng biết chế tác, sáng tạo và xác lập bản sắc văn hóa ngay trong buổi đầu dựng nước.

Kỷ niệm một thế kỷ phát hiện văn hóa Đông Sơn (1924 - 2024) trở thành dịp để điện ảnh trở lại với nguồn cội ấy qua bộ phim tài liệu “Đông Sơn - Miền ký ức” do Điện ảnh Quân đội nhân dân sản xuất, một tác phẩm kết hợp cảm xúc lịch sử và mỹ học hình ảnh, đưa trầm tích văn hóa bước vào đời sống đương đại.

Tác phẩm mở ra bằng góc nhìn flycam quét qua mái ngói thâm nâu, những lối nhỏ mang tên Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng, rồi dừng lại trên dòng sông Mã ôm lấy cầu Hàm Rồng như ôm lấy cả ký ức ngàn đời.

Khung hình ấy vừa gợi vẻ thanh bình hiện tại, vừa tạo độ đối thoại với tư liệu chiến tranh được lồng ghép sau đó, khi bom đạn từng làm rung chuyển vùng đất này. Vẻ đẹp và mất mát cùng hiện lên như hai sắc độ không tách rời trong lịch sử Đông Sơn.

Phim đưa người xem ngược trở về năm 1924, khi cụ Nguyễn Văn Nắm phát hiện hiện vật đồng tại xứ đồng Xuôi - khoảnh khắc mở đầu cho việc thế giới biết đến “Văn hóa Đông Sơn”. Một vùng văn hóa được định danh không chỉ bằng hiện vật khảo cổ mà còn bằng lối sống, ký ức và triết lý tồn tại của con người Việt cổ.

Cầu Hàm Rồng - chiến địa từng là mặt trận lớn của Thanh Hóa trong những năm tháng kháng chiến

Cầu Hàm Rồng - chiến địa từng là mặt trận lớn của Thanh Hóa trong những năm tháng kháng chiến

Hàm Rồng trong điện ảnh: Biểu tượng của ý chí và ký ức

Giữa hành trình tái hiện văn hóa, phim dành một phần quan trọng cho Hàm Rồng - chiến địa từng là mặt trận lớn của Thanh Hóa trong những năm tháng kháng chiến.

Lời thề của khẩu đội pháo C4, E228 “Thà gục bên pháo, quyết không để cầu gục” vang lên qua giọng kể của nhân chứng. Đó là khoảnh khắc phim kết nối ký ức chiến tranh với không gian văn hóa Đông Sơn, cho thấy sức mạnh tinh thần được hun đúc từ truyền thống lâu dài của một cộng đồng.

Hàm Rồng hiện lên trong phim vừa như chứng nhân vừa như biểu tượng, nơi giao nhau giữa quá khứ chiến tranh và khát vọng hồi sinh. Nửa thế kỷ trôi qua, cây cầu vẫn trải dài trên sông Mã, trở thành mạch nối của lịch sử và sự sống.

Nhà biên kịch Lê Ngọc Minh kể về cơ duyên đến với Đông Sơn từ chuyến làm phim năm 1990. Một phút xuất hiện của ngôi làng khi ấy đã gieo vào ông cảm giác “món nợ ân tình”, thôi thúc ông quay lại và viết nên kịch bản “Đông Sơn - Miền ký ức”.

Trong lần trở lại này, ông cùng nhà nghiên cứu Hà Huy Tâm chọn cách khai thác Đông Sơn như một “vùng ký ức mở”, nơi văn hóa, lịch sử và con người gắn bó trong một mạch sống liên tục.

Đạo diễn - Đại tá, NSND Lưu Quỳ tiếp cận đề tài bằng tinh thần lắng nghe ký ức của vùng đất. Ông chia sẻ rằng thách thức lớn nhất không nằm ở việc tái hiện bối cảnh, mà ở việc tìm được nhịp cảm xúc phù hợp với chiều sâu văn hóa nơi đây.

Có những buổi sáng sương mờ phủ kín sông Mã, đoàn phim chỉ đứng yên để cảm nhận âm hưởng của quá khứ trước khi bấm máy.

Chính những khoảnh khắc nội tâm ấy đã định hình ngôn ngữ hình ảnh trong phim: Tiết chế lời bình, mở rộng cảm xúc cho ánh mắt nhân chứng, bàn tay người dân, mái nhà, bậc thềm cũ.

Trong cấu trúc phim, âm nhạc của cố nhạc sĩ An Thuyên được sử dụng với vai trò đặc biệt. Đạo diễn xem âm thanh như “người kể chuyện vô hình”, có lúc để im lặng để khán giả nghe hơi thở ký ức, có lúc để giai điệu trỗi dậy như trống đồng ngân vọng, đưa người xem đi sâu vào chiều sâu văn hóa Đông Sơn.

Theo nhà biên kịch Lê Ngọc Minh, kịch bản được viết với mong muốn tri ân những con người đã làm giàu cho truyền thống Đông Sơn, từ những nghệ nhân vô danh đến những người đã ngã xuống trong kháng chiến. Ông gọi đó là trách nhiệm của hậu thế: “Không quên, mà phải tiếp tục hun đắp và lan tỏa để truyền thống ấy tỏa sáng hơn”.

Đạo diễn NSND Lưu Quỳ thì gợi mở một triết lý sâu sắc: bản sắc Việt hình thành từ mối liên kết giữa Gia đình - Làng - Đất nước.

Trong cấu trúc ấy, Đông Sơn là ví dụ điển hình. Người cha ra trận, người mẹ trụ lại trên bến bãi, con trẻ lớn lên từ ký ức của cộng đồng, tất cả hòa vào nhau, tạo nên ý chí gìn giữ làng xóm cũng chính là gìn giữ Tổ quốc.

Bộ phim vì thế khắc họa một tinh thần cộng mệnh: mỗi cá nhân là mảnh ghép của đại gia đình dân tộc; ký ức của làng gắn liền với ký ức quốc gia; tiếng trống đồng, tiếng pháo cao xạ và nhịp sống hôm nay đều thuộc về cùng một dòng chảy.

Dòng chảy ký ức vẫn tiếp tục

Phần kết phim để lại dư âm lắng đọng với hình ảnh sông Mã lững lờ trôi dưới chân cầu Hàm Rồng, phản chiếu mái ngói rêu phong của làng cổ. Trong lớp nhạc cuối, người xem tưởng như nghe tiếng trống đồng vọng lên từ sâu thẳm, hòa cùng tiếng bước chân hiện tại, như một cách khẳng định rằng ký ức không hề cũ đi.

“Đông Sơn - Miền ký ức” vì thế vượt khỏi khuôn khổ của một bộ phim tài liệu. Tác phẩm trở thành cuộc trở về với nguồn cội văn hóa, đồng thời là sự khẳng định rằng những giá trị của Đông Sơn vẫn tiếp tục song hành với người Việt qua nhiều thế hệ.

Âm hưởng của lời thề bất khuất “Thà gục bên pháo, quyết không để cầu gục” vẫn vang lên trong từng thước phim như một mạch nguồn của lòng tự tôn và sức mạnh tinh thần.

Đó cũng là lý do để bộ phim sẽ đứng vững trong lòng công chúng. Nó không chỉ kể chuyện quá khứ, mà còn gợi mở câu hỏi cho hiện tại: “Chúng ta sẽ tiếp tục gìn giữ và truyền đi ký ức văn hóa của dân tộc bằng cách nào?”.

HÀ TRUNG

Nguồn Văn hóa: http://baovanhoa.vn/nghe-thuat/khi-tram-tich-van-hoa-buoc-vao-ngon-ngu-dien-anh-181859.html