Khoa cử và cách tuyển chọn nhân tài phục vụ quốc gia thời xưa
Sách 'Lược khảo về khoa cử Việt Nam' của học giả Trần Văn Giáp (Nguyễn Phúc An khảo chú) mang đến cho độc giả cái nhìn về khoa cử thời phong kiến tại Việt Nam và cách tuyển chọn nhân tài phục vụ quốc gia thời xưa.
Học giả Trần Văn Giáp (1902-1973) là một trí thức tân học. Ông xuất thân từ một gia đình khoa bảng, học chữ Hán, từng thi đỗ Tam trường, nhưng sớm chuyển sang học tiếng Pháp và đi du học ở Pháp. Ông có hơn 27 năm làm việc ở Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) và tại đây ông có rất nhiều điều kiện để nghiên cứu về lịch sử và ngữ văn cổ trung đại Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông theo kháng chiến và công tác ở Bộ Giáo dục, rồi dạy học ở một số trường. Năm 1954, ông công tác tại Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa, sau chuyển thành Viện Sử học Việt Nam.

Sách Lược khảo về khoa cử Việt Nam. Ảnh: QM.
Một nền khoa cử hùng hậu trải ngót nghìn năm
Sách Lược sử về khoa cử Việt Nam là tập hợp 15 bài viết tiêu biểu của Trần Văn Giáp bàn về lịch sử khoa cử, phép thi văn - thi võ, cách tổ chức trường thi, vị thế của quan trường và thí sinh, cũng như quan niệm của người xưa về con đường khoa bảng. Nội dung sách được trích từ Khai Trí Tiến Đức tập san (Hà Nội, 1941), mang đến một nguồn tư liệu giá trị để tham chiếu và nghiên cứu.
Trong Lược sử về khoa cử Việt Nam, học giả Trần Văn Giáp đã trình bày quan điểm khoa cử đặt ra cốt để kén chọn nhân tài cho Nhà nước. Theo ông, khoa cử nung đúc cái chí của con người ta cho được cầu tiến. Vào đời xưa, phàm những người muốn tiến thân, đều phải nỗ lực học hành đặng bước vào đường khoa cử, tiến tới ngưỡng cửa quan quyền. Do đó, đối với nước nhà thì khoa cử là phép lựa nhân tài, đối với kẻ sĩ thì là con đường tiến thân vinh hoa, rộng mở.
Theo dòng lịch sử, tác giả sách cho biết nước ta mở khoa thi đầu tiên vào đời nhà Lý, năm Ất Mão, niên hiệu Thái Ninh đời vua Lý Nhân Tông (1075) gọi tên là khoa Minh kinh bác học, đó chính là khởi đầu cho khoa cử ban văn của nước ta, để các đời sau này noi theo mà làm nên một nền khoa cử hùng hậu trải ngót nghìn năm.
Tác giả sẽ đưa người đọc đến với không khí trường thi ngày xưa, cách mà nước ta đã tổ chức, sắp đặt, định lệ về thi cử cho dân ta thông qua khoa cử từ khởi thủy, cho đến năm 1918 cánh cửa khoa cử mới thực sự khép lại.
Kỳ thi phổ biến lúc bấy giờ có thể kể đến là kỳ Thi Hương, tất cả sĩ tử ở các châu, huyện trong một tỉnh hay nhiều tỉnh cùng thi ở một tỉnh lị nào đó để kén chọn lấy người học giỏi, rồi lại cùng thi ở kinh đô với những người học giỏi ở các tỉnh khác. Người trúng tuyển thi Hương thường gọi theo thời là cống tử, cử nhân.
Nền tảng quan trọng cho phát triển bền vững
Bên cạnh khoa thi văn, cuốn sách còn khảo cứu về sự hình thành khoa thi võ. Dấu mốc đầu tiên được ghi nhận là năm Chính Long thứ 8 (Bảo Ứng, 1170) đời Lý Anh Tông, vua thường ra tập bắn trường bắn ở phía Nam kinh thành, khi tập có bắt các quan võ thường ngày phải đua nhau tập học phép công thủ, lối bày trận.

Ông Cao Xuân Dục, khi đó là Tổng đốc Định Ninh (Nam Định - Ninh Bình), trực tiếp chủ trì và giám sát kỳ thi Đinh Dậu 1897 tại trường thi Nam Định. Ảnh phục chế màu. Nguồn: TTD/LVX&N.
Đến đời vua Trần Thái Tông có chọn những người có dũng lực mà hiểu võ nghệ cho làm Thượng đô Túc vệ, thì ta có thể cho rằng thi võ của nước ta khởi thủy từ đó. Kỳ thực, đến đời Lê Thái Tổ mới đặt thể lệ thi võ, tới đời Bảo Thái (1720-1728) sau Lê Trung Hưng mới đặt hẳn khoa thi.
Nói về dấu mốc năm 1918 cánh cửa khoa cử khép lại, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc An - người khảo chú cuốn sách chia sẻ: "Theo biến động của lịch sử và thời cuộc, đầu thế kỷ 20, nước ta rơi vào tay thực dân Pháp, thể chế hành chánh, chính trị, quân sự, xã hội hết thảy đều như bị lật tung lên để cơ cấu lại. Thiết chế quân chủ bị phá vỡ, những gì thuộc về quá khứ lỗi thời dần bị thay thế. Trong một thời đại mọi thứ đều phải cải cách, cải lương, thì khoa cử với nội hàm thuộc về cơ chế cũ cũng không ngoại lệ, nó đã bị hủy bỏ để thay thế bằng một nền học mới (tân học).
Về sau, chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán, chữ Nôm. Thế hệ sau biết chữ Hán càng ít dần, hiếm hoi, xa lạ với chữ viết của cha ông ta từng sử dụng hàng nghìn năm. Những tư liệu Hán Văn, chữ Nôm xưa giờ ít người đọc và hiểu được. Dần dà, những văn hóa, văn hiến Việt Nam dần bị rơi vào tình thế đứt gãy tư liệu lịch sử, dễ rơi vào lãng quên… khi thể chế cũ sụp đổ".
Tóm lại, với việc tái hiện quá trình hình thành và phát triển hàng nghìn năm của nền khoa cử thời phong kiến, sách Lược khảo về khoa cử Việt Nam không chỉ gợi nhớ về một giai đoạn lịch sử quan trọng mà còn đặt ra vấn đề ý nghĩa của học tập và tri thức trong công cuộc dựng nước, giữ nước. Thông qua cuốn sách này, chúng ta thấy rằng, dù ở thời đại nào, thì giáo dục, thi cử, tìm kiếm/tuyển chọn hiền tài phục vụ đất nước vẫn là nền tảng quan trọng cho phát triển bền vững.