Khoảng 58% thương mại ở châu Á - Thái Bình Dương ảnh hưởng bởi rào cản phi thuế quan

Thích ứng với các rào cản phi thuế quan (NTBs), cần có những giải pháp chung ban đầu của ASEAN, giải pháp từ mỗi quốc gia và từ chính các nhà xuất khẩu.

Nhiều rào cản phi thuế quan nằm ẩn dưới các chính sách

Chia sẻ tại Hội thảo “Gỡ rào cản phi thuế quan vì thịnh vượng chung ASEAN” diễn ra ngày 27/6, bà Phương Nguyễn - Luật sư Điều hành, Trưởng chi nhánh Hà Nội, Công ty Luật KPMG tại Việt Nam kể lại một điển hình trong tranh chấp thương mại đã từng xảy ra giữa Indonesia và Liên minh châu Âu (EU) liên quan đến mặt hàng dầu cọ.

Theo đó, EU đã ban hành loạt chỉ thị, đáng chú ý là RED I (2009/28/EC) và RED II (2018/2001) nhằm thúc đẩy năng lượng tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực giao thông vận tải. Các văn bản này thiết lập tiêu chí bền vững và yêu cầu tiết giảm phát thải khí nhà kính đối với nhiên liệu sinh học, trong đó có dầu cọ. Sản phẩm này được đánh giá là có nguy cơ cao gây chuyển đổi mục đích sử dụng đất (ILUC), kéo theo nạn phá rừng. RED II giới hạn tỷ lệ nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ cây lương thực , trong đó có dầu cọ, chỉ được chiếm tối đa 7% trong tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng cho vận tải và đặt mục tiêu loại bỏ hoàn toàn các nhiên liệu có nguy cơ ILUC cao trước năm 2030, trừ khi doanh nghiệp chứng minh được không liên quan đến phá rừng hay sử dụng đất suy thoái.

Các biện pháp này đã cản trở việc xuất khẩu dầu cọ sang EU của Indonesia, quốc gia xuất khẩu dầu cọ lớn nhất thế giới. Indonesia đã khiếu nại lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cho rằng các quy định trên mang tính phân biệt đối xử, vi phạm các cam kết thương mại. Trong khi phản hồi từ phía EU, đây là biện pháp môi trường hợp pháp và cần thiết để bảo vệ khí hậu toàn cầu. WTO dù thừa nhận những lo ngại về môi trường của EU nhưng cũng cho biết mức giới hạn này không được áp dụng nhất quán và gây gánh nặng không cân xứng cho dầu cọ Indonesia.

Trường hợp dầu cọ của Indonesia là một minh chứng cho một loại rào cản phi thuế quan (NTB) không dễ xác định ngay là “rào cản”. Theo bà Phương, có nhiều rào cản được “ẩn”, có thể được thiết kế dưới hình thức chính sách môi trường, biện pháp kỹ thuật, quy tắc… nhưng lại có ảnh hưởng lớn đến thương mại.

Theo định nghĩa của UNCTAD (2010), rào cản phi thuế quan là các biện pháp chính sách ngoài thuế quan hải quan có khả năng ảnh hưởng kinh tế đến thương mại quốc tế, làm thay đổi khối lượng hoặc giá trị hàng hóa giao dịch. Rào cản này thường không hiển hiện rõ ràng, bởi chúng được “ngụy trang” dưới các chính sách y tế, an toàn, môi trường, tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc hành chính.

Trong khu vực ASEAN, đại diện từ KPMG cũng dẫn ra nhiều hình thức NTBs phổ biến hiện nay bao gồm yêu cầu nội địa hóa dữ liệu như Luật Bảo vệ Dữ liệu Cá nhân (PDP) của Indonesia năm 2022 yêu cầu dữ liệu công và tài chính phải lưu trữ trong nước hay Nghị định 53/2022/NĐ-CP của Việt Nam quy định tương tự với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Cùng đó, các yêu cầu kiểm nghiệm và chứng nhận nội địa bắt buộc cũng là một loại “rào cản” phổ biến. Như việc Philippines yêu cầu thuốc dù đã đạt chuẩn quốc tế vẫn phải thử nghiệm lâm sàng trong nước, hay Việt Nam không còn chấp nhận các báo cáo thử nghiệm quốc tế với sản phẩm ICT. Các yêu cầu về xuất xứ phức tạp mà nhiều nước đưa ra gây khó khăn cho nhà xuất khẩu khu vực cũng là "rào cản" thường thấy.

58% thương mại khu vực châu Á - Thái Bình Dương ảnh hưởng bởi NTBs

Bà Phương Nguyễn - Luật sư Điều hành, Trưởng chi nhánh Hà Nội, Công ty Luật KPMG tại Việt Nam - Ảnh: Đức Thanh

Bà Phương Nguyễn - Luật sư Điều hành, Trưởng chi nhánh Hà Nội, Công ty Luật KPMG tại Việt Nam - Ảnh: Đức Thanh

Theo bà Phương Nguyễn, tác động của các rào cản phi thuế quan đến doanh nghiệp và dòng chảy thương mại là không hề nhỏ. Dẫn theo báo cáo APTIR 2019, đại diện từ KPMG cho biết khoảng 58% thương mại khu vực châu Á - Thái Bình Dương chịu ảnh hưởng bởi NTBs.

Tại Việt Nam, các doanh nghiệp nhập khẩu thường vướng phải tình trạng thời gian cấp phép kéo dài, chi phí lưu kho tăng cao, yêu cầu ghi nhãn phức tạp, bắt buộc nhiều thông tin trên nhãn, gây khó khăn cho hàng tiêu dùng. Ở chiều ngược lại, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cũng gặp rào cản khi chứng nhận sản phẩm của Việt Nam không được đối tác công nhận, phải kiểm tra lại từ đầu, gây tốn kém và chậm trễ. Sự khác biệt lớn về tiêu chuẩn kiểm dịch thực vật, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, hay yêu cầu xuất xứ... cũng khiến nhiều lô hàng bị ách tắc.

Từ góc nhìn của KPMG, cần có những giải pháp chung ban đầu của ASEAN. Cụ thể, bà Phương Nguyễn cho rằng nên khuyến khích sử dụng Cổng thông tin thương mại ASEAN để cập nhật và chia sẻ chính sách, từ đó, tăng cường minh bạch hóa thông tin. Cùng đó, cần áp dụng các nguyên tắc rõ ràng, hợp lý, minh bạch và không phân biệt đối xử khi ban hành NTBs mới.

Mỗi quốc gia cần cải thiện nội lực trong nước, đơn giản hóa quy trình cấp phép, tăng công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn, và thúc đẩy số hóa. Ngoài ra, việc chú trọng đào tạo, hỗ trợ doanh nghiệp hay tổ chức hội thảo giúp các SME hiểu hơn chính sách, khung pháp lý có liên quan, cơ sở dữ liệu được kết nối để cập nhật và theo thời gian thực để hỗ trợ hoạt động liên quan. Điều này sẽ giúp nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong việc hiểu và đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu.

“Không thể loại bỏ hoàn toàn rào cản phi thuế quan, nhưng các giải pháp thích ứng sẽ giúp các nhà xuất khẩu ASEAN sẵn sàng tuân thủ các NTB nước ngoài”, bà Phương Nguyễn cũng nhấn mạnh.

Thanh Thủy

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/khoang-58-thuong-mai-o-chau-a---thai-binh-duong-anh-huong-boi-rao-can-phi-thue-quan-d315071.html