Khoáng sản phân bón trở thành tâm điểm của an ninh lương thực toàn cầu

Giá potash (tên gọi chung của các hợp chất có chứa kali) và đá phốt phát, những khoáng chất quan trọng trong phân bón, tăng vọt sau chiến sự Ukraine hồi đầu năm ngoái. Điều này khiến một phân khúc hẹp trong ngành công nghiệp khai khoáng toàn cầu trở thành tâm điểm của cuộc tranh luận trên toàn cầu về an ninh nguồn cung lương thực.

Mỏ potash Jansen có vốn đầu tư 5,7 tỉ đô la của tập đoàn khai mỏ BHP đang được phát triển ở Canada. Ảnh: CBC News

Mỏ potash Jansen có vốn đầu tư 5,7 tỉ đô la của tập đoàn khai mỏ BHP đang được phát triển ở Canada. Ảnh: CBC News

Hồi tháng 6, các nhà lập pháp Mỹ đề xuất bổ sung potash và đá phốt phát vào danh sách các khoáng sản quan trọng của đất nước trong dự luật mới tại quốc hội Mỹ nhằm thúc đẩy sản xuất phân bón ở trong nước.

“An ninh lương thực cũng chính là an ninh quốc gia của chúng ta. Vì vậy, khi phụ thuộc vào khoáng sản sản xuấr phân bón trồng trọt của Nga và Trung Quốc, chúng ta đang tự đặt mình vào nguy hiểm”, nghị sĩ đảng Dân chủ Elissa Slotkin, một trong những người bảo trợ cho dự luật, nói,

Một số công ty khai mỏ lớn nhất của phương Tây đã bắt đầu mở rộng sang sản xuất phân bón khi dự đoán dân số ngày càng tăng trên thế giới sẽ thúc đẩy nhu cầu tiếp tục tăng trưởng.

Kali và phốt phát là những chất dinh dưỡng quan trọng cho cây trồng. Kali cần thiết để thúc đẩy năng năng suất của các loại cây trồng như bắp và đậu nành. Trong khi đó, phốt phát giúp cho cây trồng khỏe mạnh, giúp ra nhiều hoa hơn và quả chín tốt hơn. Hai khoáng chất này, cùng với nitơ, là nền tảng của các loại phân bón hiện đại.

BHP (Úc), công ty khai thác mỏ lớn nhất thế giới, đã bắt đầu phát triển mỏ potash Jansen trị giá 5,7 tỉ đô la ở Canada. Đây là dự án mới lớn nhất của BHP được phê duyệt trong thập niên qua. Khi mỏ Jansen đi vào hoạt động vào cuối năm 2026, nguồn cung kali của Canada sẽ tăng lên đáng kể. Mỏ dự kiến ban đầu sẽ sản xuất 4,4 triệu tấn kali mỗi năm, tương đương 5% nhu cầu toàn cầu.

Đối thủ Anglo American (Anh) đang phát triển một mỏ khổng lồ trị giá 6,1 tỉ đô la ở miền bắc nước Anh, nơi sẽ sản xuất polyhalite, một khoáng sản giàu kali từ năm 2027. Polyhalite, chứa kali, canxi, magiê và lưu huỳnh, đã được chứng minh cải thiện năng suất cây trồng và là một sản phẩm hữu cơ cần xử lý tối thiểu giữa mỏ và đồng ruộng.

Tom McCulley, người đứng đầu bộ phận dinh dưỡng cây trồng tại Anglo American, nhấn mạnh việc mở rộng sản xuất sang khoáng sản

phân bón tạo ra một “chân kiềng” mới cho công ty, vốn cung đang cũng sản xuất đồng, bạch kim và kim cương.

“Việc các công ty khai mỏ tham gia vào lĩnh vực phân bón là một bước đi hợp lý. Đó là một ngành sẽ tồn tại mãi mãi và mang lại một số giá trị về đa dạng hóa kinh doanh”, Tim Cheyne, người đứng đầu bộ phận nông nghiệp và phân bón của hãng nghiên cứu thị trường hàng hóa Argus, nhận xét,

Trong lịch sử, giá cả phân bón cho cây trồng ít có mối tương quan với các mặt hàng được khai thác khác như quặng sắt hoặc đồng, Điều này khiến các khoáng sản phân bón là sự lựa chọn hấp dẫn đối với các công ty khai mỏ muốn đa dạng hóa sản xuất

“Đến năm 2050, thế giới được dự kiến có khoảng 10 tỉ người, nhiều hơn 2 tỉ so với hiện nay. Việc đáp ứng nhu cầu ăn cho lượng dân số khổng lồ đó đòi hỏi sản xuất lương thực hiệu quả hơn từ diện tích đất canh tác ít hơn. Điều đó sẽ hỗ trợ nhu cầu kali sử dụng trong phân bón.” Mike Henry, CEO của BHP, cho biết,

Các nhà phân tích dự kiến nhu cầu kali sẽ tăng khoảng 1% mỗi năm vào cuối thập niên này. Dù xu hướng nhu cầu dài hạn có thể rõ ràng nhưng những năm qua giá cả lại không ổn định.

Trước khi Nga phát động tấn công quân sự ở Ukraine, các lệnh trừng phạt của Mỹ và đồng minh nhằm vào Belarus đã khiến thị trường phân bón lo lắng. Khi chiến sự Ukraine nổ ra, thị trường chuyển sang hoảng loạn vì Nga và Belarus cùng nhau chiếm 40% sản lượng kali toàn cầu.

Hoạt động sản xuất kali chỉ tập trung ở một số công ty, gồm Nutrien của Canada, Mosaic của Mỹ, Belaruskali của Belarus và Uralkali của Nga. Những công ty này chiếm hơn một nửa nguồn cung kali toàn cầu.

Giá kali đã tăng lên mức cao nhất trong một thập niên ngay sau chiến sự Ukraine khi các khách hàng chạy đua mua dự trữ. Nhưng mức tăng này chỉ diễn ra trong thời gian ngắn do nông dân phản ứng bằng cách sử dụng ít kali hơn cho cây trồng của họ.

Hiện nay, giá kali chưa bằng một nửa mức cao nhất trong giai đoạn đầu của chiến tranh, do nguồn cung từ Nga và Belarus tiếp cận thị trường toàn cầu nhiều hơn dự kiến.

Giá giảm đã khiến Nutrien phải tạm dừng kế hoạch mở rộng sản xuất kali. Công ty cũng đang hạn chế sản xuất kali để phản ứng với các điều kiện thị trường. Dù có khả năng sản xuất tới 15 triệu tấn kali mỗi năm nếu cần thiết, nhưng năm nay công ty dự kiến chỉ bán được từ 12,6 -13,2 triệu tấn.

“Chúng ta lại đang ở đáy của chu kỳ giá kali”, Chris Lawson, người đứng đầu bộ phận phân bón tại Công ty tư vấn CRU, nói.

Ông kỳ vọng giá sẽ dần tăng cao vào cuối năm nay và năm tới khi thị trường tái cân bằng. Ông dự báo nhu cầu kali toàn cầu tăng lên 64 triệu tấn trong năm nay so với 59 triệu tấn năm ngoái,

Đối với các loại khoáng sản phân bón khác như đá phốt phát, cuộc chiến ở Ukraine có ít tác động hơn. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi năng lượng sạch có thể gây tác động lớn hơn nhiều.

Đá phốt phát, chủ yếu được sản xuất ở Maroc, Trung Quốc, Mỹ và Nga, không chỉ được sử dụng trong sản xuất phân bón mà còn là vật liệu đầu vào quan trọng cho một loại pin điện ngày càng phổ biến, có tên gọi lithium sắt photphat (LFP). Nhu cầu từ ngành xe điện dự kiến sẽ đẩy tăng nhu cầu đá phốt phát tăng lên tới 4% vào cuối thập niên này.

Theo Financial Times

Khánh Lan

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/khoang-san-phan-bon-tro-thanh-tam-diem-cua-an-ninh-luong-thuc-toan-cau/