Kiến tạo siêu đô thị quốc tế: Niềm tin thể chế, trao quyền và hợp tác công - tư
Hành trình trở thành siêu đô thị quốc tế Đông Nam Á của TP.HCM còn là bài toán xây dựng niềm tin thể chế, trao quyền cho doanh nghiệp và tái cấu trúc mô hình hợp tác công - tư. Khi ba yếu tố này cùng cộng hưởng, TP.HCM sẽ thật sự bước vào kỷ nguyên phát triển mới, trở thành một đô thị quốc tế thông minh, xanh và nhân văn.

Ông Dương Minh Đức
Nâng tầm năng lực cạnh tranh của TP.HCM
TP.HCM sau sáp nhập sẽ được định hình bởi sức mạnh tổng hợp giữa giá trị tài nguyên tự nhiên phong phú, mạng lưới hạ tầng ngày càng đồng bộ và thể chế kinh tế cởi mở. Ba yếu tố này tương tác chặt chẽ, tạo nên động lực tăng trưởng nhanh nhưng bền vững, giúp Thành phố phát triển vượt qua giới hạn của một trung tâm kinh tế đơn thuần.
Về thể chế và quyền tự chủ, việc triển khai Nghị quyết 98/2023/QH15 cùng Quy hoạch TP.HCM giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 cho phép Thành phố thử nghiệm mô hình quản trị đô thị sáng tạo, tài chính hiện đại và đổi mới công nghệ. Quyền tự chủ không chỉ rút ngắn quy trình ra quyết định mà còn khuyến khích các sáng kiến quản trị, huy động nguồn lực xã hội và giảm thiểu chi phí thể chế. Khi cơ chế được vận hành theo nguyên tắc “trao quyền để tạo giá trị”, năng lực cạnh tranh của Thành phố sẽ được nâng lên tầm khu vực.
Sự kết nối giữa trục sông Sài Gòn - Thị Vải, cụm cảng Cái Mép - Thị Vải, sân bay Long Thành, cùng các tuyến vành đai và cao tốc liên vùng, đang mở rộng không gian kinh tế từ trung tâm ra biển. Khi các công trình trọng điểm được vận hành đồng bộ, hiệu ứng lan tỏa kinh tế - xã hội sẽ được “giải nén”, hình thành chuỗi liên kết biển - đô thị - công nghiệp - du lịch, mang lại sức cạnh tranh vượt trội cho toàn vùng Đông Nam Bộ.
TP.HCM sau sáp nhập sẽ không chỉ là trung tâm thương mại - tài chính, mà còn là đầu mối logistics tầm khu vực, sở hữu “hệ thống hạ tầng kép” kết nối trực tiếp hàng hóa Việt Nam ra thế giới, không cần trung chuyển qua các cảng nước ngoài. Đó là nền tảng để thành phố trở thành cực tăng trưởng hàng đầu Đông Nam Á, gắn liền với tầm nhìn phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng.
Cuối cùng, lợi thế về tài nguyên tự nhiên của vùng hợp nhất, từ rừng ngập mặn Cần Giờ, biển sâu Bà Rịa - Vũng Tàu đến công nghiệp công nghệ cao Bình Dương sẽ tạo thành hệ sinh thái phát triển đa tầng giá trị. Nếu được kết nối bằng chính sách điều phối thông minh, dữ liệu mở và hạ tầng xanh, TP.HCM mới có thể hình thành mô hình siêu đô thị tích hợp, vừa năng động, vừa thích ứng với biến đổi khí hậu, tạo nên chuẩn mực phát triển đô thị bền vững cho Việt Nam.
Để TP.HCM cạnh tranh với các trung tâm kinh tế hàng đầu khu vực như Singapore, Bangkok hay Kuala Lumpur, điều kiện tiên quyết không chỉ là quy mô hay hạ tầng hiện đại mà là xây dựng không gian kinh doanh minh bạch, ổn định và có thể dự đoán được. Doanh nghiệp cũng cần một môi trường nơi luật chơi rõ ràng, chính sách nhất quán, cơ chế thực thi công bằng. Theo đó, TP.HCM cần tập trung vào ba trụ cột cải cách:
Trước hết, minh bạch thể chế phải gắn liền với chuyển đổi số trong quản trị công. Việc áp dụng mô hình “chính quyền số - dữ liệu mở - công dân số” sẽ giúp số hóa toàn bộ quy trình đầu tư, đất đai, thuế, hải quan, giảm chi phí ẩn và tạo cơ chế giám sát khách quan.
Bên cạnh đó, Thành phố cần duy trì cam kết ổn định chính sách thuế, đất đai, đầu tư và hạ tầng ít nhất 5 - 10 năm, đồng thời triển khai tham vấn định kỳ với khu vực tư nhân. Những quy định thử nghiệm trong fintech, năng lượng tái tạo, logistics hay đô thị thông minh cần rõ ràng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và khuyến khích đổi mới trong khuôn khổ pháp lý an toàn.
TP.HCM cần chuyển mạnh từ tư duy “quản lý” sang “đồng hành phát triển”, nơi mỗi cán bộ được đánh giá không chỉ bằng việc tuân thủ quy định, mà bằng mức độ hài lòng và thành công của doanh nghiệp. Khi chính quyền lắng nghe, một cửa thông minh và phản hồi nhanh trở thành chuẩn mực, niềm tin doanh nghiệp sẽ là thước đo năng lực quản trị đô thị.

TP.HCM sau sáp nhập sẽ không chỉ là trung tâm thương mại - tài chính, mà còn là đầu mối logistics tầm khu vực
Đổi mới cơ chế hợp tác công - tư: Kiến tạo hệ sinh thái phát triển bền vững
Một trong những đột phá thể chế quan trọng nhất để hiện thực hóa tầm nhìn siêu đô thị quốc tế là đổi mới cơ chế hợp tác công - tư (PPP). Thay vì chỉ xem PPP là công cụ huy động vốn, TP.HCM cần thiết kế cơ chế này như một hệ sinh thái đồng sáng tạo, nơi Nhà nước và doanh nghiệp cùng kiến tạo giá trị phát triển chung.
Một mô hình PPP hiệu quả phải được xây dựng trên ba nguyên tắc: rõ vai trò - minh bạch - linh hoạt. Trước hết, Thành phố cần thiết lập khung thể chế đặc thù về PPP, cho phép áp dụng các quy trình phê duyệt rút gọn, đấu thầu cạnh tranh minh bạch và chia sẻ thông tin dự án theo thời gian thực. Toàn bộ quy trình, từ lựa chọn nhà đầu tư, giám sát tài chính đến vận hành công trình nên được số hóa trên nền tảng dữ liệu PPP. Môi trường pháp lý minh bạch và ổn định sẽ là “điểm tựa niềm tin” cho các nhà đầu tư chiến lược.
Thứ hai, cơ chế chia sẻ rủi ro - lợi ích cần công bằng và tương xứng. Nhà nước tập trung vào vai trò bảo đảm pháp lý, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, cung cấp dữ liệu và giám sát hiệu quả xã hội - môi trường; trong khi doanh nghiệp đảm nhiệm công nghệ, vận hành và quản trị rủi ro. Thành phố có thể thiết kế các công cụ tài chính hỗ trợ như bảo lãnh doanh thu tối thiểu, quỹ bảo hiểm rủi ro PPP, tín dụng xanh, hoặc cơ chế chia sẻ giá trị gia tăng từ đất (land value capture). Khi lợi ích và rủi ro được phân bổ hợp lý, PPP không chỉ là hợp đồng đầu tư mà là mối quan hệ hợp tác phát triển lâu dài.
Cuối cùng, cần chuyển từ mô hình PPP tuyến tính sang mô hình PPP động, trong đó vai trò, tỷ lệ vốn và trách nhiệm của các bên có thể được điều chỉnh linh hoạt theo tiến độ và kết quả thực tế. Các hợp đồng thông minh vận hành trên nền tảng dữ liệu số và blockchain sẽ giúp đảm bảo minh bạch, cập nhật tiến độ và điều chỉnh thanh toán tự động. Song song đó, cơ chế “đồng sáng tạo chính sách” cần được áp dụng ngay từ khâu quy hoạch để doanh nghiệp không chỉ tham gia thực hiện mà còn tham gia hoạch định ưu tiên phát triển đô thị.
Một cơ chế PPP kiểu mới, minh bạch, linh hoạt và chia sẻ giá trị công bằng sẽ giúp TP.HCM huy động hiệu quả nguồn lực xã hội, giảm gánh nặng ngân sách và tạo ra “hiệu ứng lan tỏa niềm tin” trong cộng đồng doanh nghiệp. Khi thể chế đủ mở, công nghệ bảo đảm giám sát công khai và các bên cùng chịu trách nhiệm với sự phát triển vùng, doanh nhân sẽ không chỉ đầu tư vì lợi nhuận mà vì khát vọng đồng kiến tạo tương lai của một thành phố vươn tầm quốc tế.
(*) Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế và Du lịch TP.HCM
Thanh Ngân ghi