Kỳ 4: Bức điện mật của Đại tướng và quyết tâm kết thúc cuộc chiến
Cuối tháng 3/1975 khi quân ta liên tiếp giành thắng lợi to lớn trên các chiến trường, phía địch vô cùng choáng váng, hoảng loạn và bế tắc về chiến lược, thì cũng là lúc, quyết định lịch sử được đưa ra: 'Quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng tư năm nay (1975), không để chậm'.
Không bỏ lỡ thời cơ chiến lược
Cuối tháng 3/1975, quân ta liên tiếp giành thắng lợi to lớn trong các Chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng (tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 2 quân đoàn, giải phóng 16 tỉnh, đưa số nhân dân vùng giải phóng lên 8 triệu) khiến quân địch bị tổn thất nặng về cả quân số lẫn vật chất, giảm sút nghiêm trọng về tinh thần chiến đấu.
Chưa hết, ngay sau đó, phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương, bộ đội ta tiến công giải phóng các tỉnh Bình Định, Phú Yên (ngày 1/4/1975), Khánh Hòa (ngày 3/4/1975) nối liền vùng giải phóng từ Tây Nguyên, Trị Thiên và các tỉnh Trung Bộ. Đồng thời với giải phóng các tỉnh trên đất liền, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo Quân khu 5 phối hợp với Quân chủng Hải quân giải phóng các đảo, quần đảo trên Biển Đông.

Bộ đội lên máy bay vận tải vào miền Nam tham gia giải phóng Sài Gòn (tháng 4/1975). Ảnh: Tư liệu TTXVN
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị đã họp và nhận định: “Cuộc Tổng tiến công chiến lược đã giành được thắng lợi vô cùng to lớn, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 2 quân đoàn, giải phóng 16 tỉnh, đưa số nhân dân vùng giải phóng lên 8 triệu; thời cơ chiến lược tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Cần có sự quyết tâm lớn hoàn thành trận quyết định chiến lược cuối cùng tốt nhất trong tháng 4/1975”.
Theo Hồi ký “Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng” của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, “đây là cuộc họp lịch sử bàn về đòn chiến lược thứ ba, đòn cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Không khí phấn khởi tràn ngập “Nhà con rồng” – (tức phòng họp của Bộ Tổng Tư lệnh xây dựng trên nền Điện Kính thiên trong khu di tích Hoàng thành Thăng Long – BT), những nét mặt rạng rỡ, những ánh mắt sáng ngời, những cái bắt tay hứa hẹn...”.
Trong cuộc họp này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: “Đề nghị khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến, thực hiện bao vây chiến lược ở phía Đông và phía Tây Sài Gòn - Gia Định, sử dụng nắm đấm chủ lực, bất ngờ thọc sâu tiêu diệt địch. Đánh một trận là thắng. Phương châm là “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Đại tướng nhấn mạnh, lúc này thời gian là lực lượng, là sức mạnh vô cùng quý giá cho ta. “Lúc này, bài toán thời gian không dừng lại ở đáp số tính bằng tháng mà phải tính bằng ngày!”.
Một ngày sau đó, ngày 1/4/1975, căn cứ vào tình hình trên chiến trường Bộ Chính trị họp bổ sung quyết tâm chiến lược mới: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, không thể để chậm hơn.”
Bức điện mật với mệnh lệnh lịch sử
“Ngày 1/4/1975, tôi gọi điện vào B2: Đúng như Bộ Chính trị nhận định, chiến tranh cách mạng ở miền Nam đang bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt. Hiện nay ta đã có đầy đủ lực lượng và khả năng để giành thắng lợi hoàn toàn trong một thời gian ngắn hơn dự kiến rất nhiều. Vấn đề quyết định là phải kịp thời nắm lấy thời cơ, tranh thủ vào trung tuần tháng 4 thì bắt đầu cuộc tấn công quy mô lớn vào Sài Gòn. Làm được như vậy thì thuận lợi nhất, bảo đảm thắng lợi giòn giã nhất...” - Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại.
Từ việc nhận định rõ thời cơ chiến lược đặt dấu chấm hết cho 21 năm trường kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đến, ngày 7/4/1975, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã ban hành bức điện khẩn gửi đến toàn mặt trận với yêu cầu: “Mệnh lệnh: 1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng; 2. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ”.

Bức điện mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi các đơn vị tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 7/4/1975. Ảnh tư liệu.
“Bức điện là mệnh lệnh đúng thời điểm để các cánh quân của ta trên các chiến trường thực hiện kế hoạch chớp thời cơ, nhanh chóng tổ chức các hướng, hình thành thế bao vây và tiến vào sào huyệt cuối cùng của chính quyền Sài Gòn. Trong thời khắc lịch sử đó, bức điện của Đại tướng vừa là mệnh lệnh của Tổng tư lệnh nhưng đồng thời đây cũng là lời hịch để cổ vũ tinh thần đối với cán bộ, chiến sĩ trên chiến trường” - Đại tá, Tiến sĩ Vũ Ngọc Thủy nhìn nhận.
Sau đó một ngày, trong cuộc họp ngày 8/4/1975 ở căn cứ Tà Thiết (Lộc Ninh), Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định gồm các đồng chí: Văn Tiến Dũng (Tư lệnh); Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn (Phó Tư lệnh); Phạm Hùng (Chính ủy); Lê Ngọc Hiển (Tham mưu trưởng)…
Bộ Chính trị khẳng định: thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam. Do đó, cần tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí, kỹ thuật và vật chất để giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.
Gần một tuần sau đó, ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua lần cuối kế hoạch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Kế hoạch xác định cuộc tiến công sẽ diễn ra đồng thời trên 5 hướng: Tây Bắc, Đông Bắc, Đông, Đông Nam, Tây và Tây Nam; thực hiện đánh nhanh, đánh dứt điểm, tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân địch, bảo vệ dân, bảo vệ các cơ sở kinh tế, văn hóa trong thành phố.
Đòn tiến công quân sự có nhiệm vụ chia cắt, bao vây, tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn địch ở vòng ngoài, không cho chúng co cụm ở nội thành; đánh chiếm các cầu lớn mở đường cho các binh đoàn đột kích bằng lực lượng binh chủng hợp thành, cùng với bộ đội đặc công, biệt động và quần chúng nổi dậy đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu, trong đó có 5 mục tiêu quan trọng nhất là Dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát. Phát động quần chúng nổi dậy phối hợp và phát huy kết quả của đòn tiến công quân sự.
Ngày 13/4/1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng - Tư lệnh Chiến dịch điện (số 51/Tk) báo cáo Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đề nghị đặt tên Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đồng ý với đề nghị của Đại tướng Văn Tiến Dũng. Quyết định của Bộ Chính trị đã tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào Chiến dịch mang tên Bác Hồ kính yêu.