Kỷ niệm 79 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 - 19/12/2025):Lời hiệu triệu non sông và sức mạnh toàn dân tộc
Cách đây 79 năm, khi vận mệnh dân tộc đứng trước thử thách sinh tử, tối 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra 'Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến', hiệu triệu toàn dân đứng lên bảo vệ nền độc lập vừa giành được.
Từ chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Bác Hồ, quân và dân ta, đặc biệt là các địa phương miền Bắc, đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến trên quy mô cả nước chống thực dân Pháp xâm lược. Trong dòng thác lịch sử ấy, Thủ đô Hà Nội đã đi đầu, viết nên bản anh hùng ca bất diệt “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.

Một khẩu đội pháo của Vệ Quốc đoàn tại trận địa pháo đài Láng, tháng 12-1946. Ảnh: TTXVN
Toàn dân kháng chiến
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mở ra kỷ nguyên độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, chính quyền cách mạng non trẻ phải đối diện với muôn vàn khó khăn, thách thức. Nền kinh tế kiệt quệ sau nhiều năm chiến tranh, nạn đói và nạn mù chữ hoành hành; các thế lực phản động trong và ngoài nước tìm mọi cách chống phá; đặc biệt, thực dân Pháp nuôi dã tâm quay trở lại xâm lược nước ta.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, bản lĩnh chính trị vững vàng cùng tinh thần nhân đạo cao cả. Với khát vọng giữ gìn hòa bình, tránh đổ máu cho nhân dân, ta chủ trương hòa hoãn có nguyên tắc, lần lượt ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, qua đó tranh thủ thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài.
Tuy nhiên, thực dân Pháp liên tiếp bội ước, gia tăng khiêu khích, nổ súng gây hấn ở nhiều nơi, từng bước mở rộng chiến tranh xâm lược, đẩy đất nước ta đến trước thử thách sinh tử. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hạ quyết tâm lịch sử: Phát động Toàn quốc kháng chiến.
Tối 19-12-1946, “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công bố. Lời hiệu triệu ngắn gọn nhưng hàm chứa tư tưởng lớn, ý chí sắt đá và niềm tin son sắt vào sức mạnh của nhân dân: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới… Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”.
Đó không chỉ là lời kêu gọi cầm súng mà còn là sự khẳng định một đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ; lấy sức mình là chính; kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Đường lối ấy đã khơi dậy và phát huy cao độ truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí độc lập của toàn dân tộc Việt Nam.
Hưởng ứng lời kêu gọi thiêng liêng đó, quân và dân ta trên khắp cả nước, đặc biệt ở các địa phương miền Bắc, đã nhất tề đứng lên kháng chiến. Ở các đô thị, nơi kẻ thù có ưu thế vượt trội về vũ khí và phương tiện chiến tranh, lực lượng tự vệ, công an xung phong, bộ đội địa phương cùng đông đảo quần chúng nhân dân đã nhanh chóng vào vị trí chiến đấu. Những khẩu hiệu “Phá nhà ngăn giặc”, “Tiêu thổ kháng chiến”, “Tấc đất tấc vàng” không chỉ là mệnh lệnh từ cấp trên, mà trở thành hành động tự giác, đầy quyết tâm của nhân dân.
Là Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hà Nội trở thành nơi nổ súng mở đầu Toàn quốc kháng chiến. Đúng 20h tối 19-12-1946, tín hiệu kháng chiến phát ra từ Nhà máy Điện Yên Phụ; tiếng súng kháng chiến đồng loạt vang lên, trong đó có trận đánh tại Bắc Bộ Phủ, báo hiệu Hà Nội bước vào cuộc chiến đấu sinh tử với quân xâm lược. Ngay trong những giờ phút đầu tiên, quân và dân Thủ đô đã thể hiện khí phách anh hùng và tinh thần quyết tử. Những chiến lũy được dựng lên từ bàn ghế, tủ gỗ, xe điện; phố phường trở thành trận địa; từng ngôi nhà là một pháo đài. Từ Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Đào, Hàng Ngang đến Ô Cầu Dền, Ô Chợ Dừa, Khâm Thiên…, đâu đâu cũng in đậm dấu ấn chiến đấu kiên cường của lực lượng kháng chiến.
Với lực lượng gồm 5 tiểu đoàn Vệ quốc quân (101, 77, 212, 145 và 523), 1 đại đội pháo binh, 8 trung đội công an xung phong, một đại đội tự vệ chiến đấu, 28.500 dân quân tự vệ, quân và dân Thủ đô đã ngày đêm bám trụ, giành giật với địch từng căn nhà, góc phố. Trong 60 ngày đêm khói lửa, Hà Nội đánh gần 200 trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên địch, phá hủy hơn 100 xe quân sự, bắn chìm một ca nô, bắn rơi và phá hủy 5 máy bay.
Phối hợp với Hà Nội, tại Hải Dương, Trung đoàn 44 (Chiến khu 3) cùng tự vệ, du kích tiến công làm tê liệt một số đơn vị quân Pháp ở Trường Nữ học, cầu Phú Lương, đường số 5; ngăn chặn quân tiếp viện của Pháp từ Hải Phòng lên Hà Nội... Tại Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh, Việt Trì, Thái Nguyên, Bắc Giang…, tiếng súng kháng chiến đồng loạt nổ ra. Ở nhiều nơi, nhân dân chủ động phá cầu, đào hào, dựng chướng ngại vật, che giấu và nuôi dưỡng cán bộ, bộ đội. Cuộc kháng chiến nhanh chóng lan rộng trên phạm vi cả nước, hình thành thế trận toàn dân vững chắc, tạo điều kiện để Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ quan đầu não rút lên căn cứ an toàn, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Suốt 60 ngày đêm anh dũng chiến đấu, quân và dân Hà Nội đã giam chân địch, làm thất bại bước đầu âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào kháng chiến lâu dài. Thực tiễn sôi động của những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của chủ trương do Đảng và Bác Hồ đề ra. Từ đây, dân tộc Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng đầy niềm tin tất thắng.
Lời thề “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” của Trung đoàn Thủ đô trở thành biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kết tinh tinh thần yêu nước và ý chí độc lập của nhân dân Thủ đô.
Ý nghĩa lịch sử và giá trị trường tồn
Thực tiễn chiến đấu của quân và dân ta khẳng định sức sống mãnh liệt của “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”. Đây là văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, thể hiện rõ tư tưởng lấy dân làm gốc, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết; kết hợp nhuần nhuyễn tinh thần nhân đạo với ý chí đấu tranh không khoan nhượng trước kẻ thù xâm lược. Từ Hà Nội, ngọn lửa kháng chiến lan tỏa khắp cả nước, hun đúc niềm tin và tiếp thêm sức mạnh cho quân và dân ta trên mọi chiến trường.
Ý nghĩa của chủ trương, đường lối kháng chiến và “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” không chỉ giới hạn trong thời khắc lịch sử cuối năm 1946, mà còn để lại những bài học sâu sắc, lâu dài cho cách mạng Việt Nam. Đó là bài học về bản lĩnh chính trị vững vàng, về tư duy chiến lược đúng đắn, về niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân. Chính những bài học ấy đã dẫn dắt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi hoàn toàn, với đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Thủ đô, tinh thần Toàn quốc kháng chiến tiếp tục được Hà Nội kế thừa và phát huy sáng tạo. Những giá trị “quyết tử” năm xưa được chuyển hóa thành ý chí vượt khó, tinh thần đoàn kết, khát vọng vươn lên xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại; gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc; giữ gìn và phát huy bản sắc người Hà Nội thanh lịch, văn minh.
Nhìn lại Ngày Toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, càng thấm thía chân lý: Độc lập, tự do không phải tự nhiên có được mà là thành quả của sự lựa chọn dũng cảm, của những hy sinh to lớn và của một đường lối cách mạng đúng đắn. “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vì thế mãi là lời hiệu triệu thiêng liêng, nhắc nhở các thế hệ hôm nay và mai sau về trách nhiệm giữ gìn Tổ quốc, bảo vệ Thủ đô, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Từ mùa đông lịch sử năm 1946, Hà Nội và cả nước đã bước vào trường kỳ kháng chiến với niềm tin sắt son. Và cũng từ đó, một chân lý được khắc sâu: Khi Tổ quốc cần, toàn dân tộc Việt Nam sẽ cùng đứng lên, như đã từng đứng lên trong đêm 19-12-1946 lịch sử.
Bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc, tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” tiếp tục soi sáng con đường xây dựng và phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Phát huy tinh thần Toàn quốc kháng chiến đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam hôm nay phải biến lòng yêu nước thành hành động cụ thể.
Kế thừa hào khí mùa đông lịch sử năm 1946, toàn dân tộc Việt Nam tiếp tục chung sức, đồng lòng, đưa đất nước vững bước tiến lên, hiện thực hóa khát vọng phát triển, khẳng định vững chắc vị thế Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.











