Ký ức làm báo chiến trường Khu V
'Trên chiến trường Khu V, nhiều chuyến đi, phóng viên phải gửi lại những thông tin, tài liệu để đồng đội ở lại cất giữ, bởi ai cũng nghĩ đó là chuyến đi cuối cùng', nhà báo Cao Duy Thảo, nguyên Chủ tịch Hội Văn học - Nghệ thuật Khánh Hòa kể.
Vững tay bút, chắc tay súng
Trong ngôi nhà trên đường Lê Hồng Phong, phố biển Nha Trang, nhà báo - nhà văn Cao Duy Thảo, tuổi đã ngoài 80, niềm vui hiện trong mắt khi phóng viên ngỏ ý được nghe cụ kể về những năm tháng cầm bút trên chiến trường Khu V. Mái đầu bạc như ngẩng cao hơn khi hồi tưởng những năm tháng "đội mưa bom" đi tác nghiệp.

Nhà báo - nhà văn Cao Duy Thảo dù tuổi đã cao nhưng vẫn đọc và viết thường xuyên.
Ông nhớ lại, năm 1966, hành quân từ Hà Nội vào chiến trường Khu V, Cao Duy Thảo được tổ chức phân công vào bộ phận điện ảnh chiến trường. Sau đó, phát hiện ông có khả năng viết báo, bút ký nên được chuyển về Tiểu ban Văn nghệ - Báo chí Khu V.
Khoảng năm 1967, Tạp chí Văn nghệ Trung Trung Bộ (đóng ở vùng núi Quảng Nam) thành lập. Nơi đây, quy tụ rất nhiều cây bút sắc sảo, sau này đều là nhà báo, nhà văn nổi tiếng như Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Trí Trung,…
"Tôi học trường Đại học Sân khấu điện ảnh, ấp ủ viết kịch bản phim nhưng khi vào Khu V, thực tế chiến trường mới không như mình hình dung trước đó. Khu V hồi đó có tờ Tạp chí Văn nghệ nhưng ưu tiên hơn cả vẫn là những bút ký đậm chất báo chí, phản ánh hơi thở cuộc chiến đấu của quân và dân ta. Vì vậy, tôi khoác ba lô theo bộ đội trực tiếp tham gia như một người lính", ông kể.
Vào chiến trường, ban ngày, người phóng viên trẻ đến mặt trận lấy tư liệu. Đêm về, viết hoặc biên tập tin, bài dưới đèn dầu trong lều dã chiến hoặc dưới các hốc đá để tránh địch phát hiện. Nhiều đêm địch ném bom tọa độ, công việc càng trở nên nguy hiểm.
"Tại mặt trận mình ghi ký hiệu, gạch đầu dòng cho được nhiều thông tin. Nguy hiểm chực chờ nhưng ai cũng hăng hái nhận mọi nhiệm vụ được giao. Cứ khoảng 5 giờ chiều, thư kí chia bài cho anh em biên tập, xong gửi lại cho thư kí tổng hợp trình lãnh đạo duyệt. Sau đó, dàn trang đưa đi nhà in đóng sâu trong hang đá", cựu phóng viên nhớ lại.

Nhà báo Cao Duy Thảo (thứ 3 từ phải qua) ở chiến trường Khu V. (Ảnh nhân vật cung cấp).
Ông còn kể, sau năm 1965, Mỹ đổ quân vào Khu V, làm báo giai đoạn này lại càng khó và nguy hiểm. Biệt kích của địch thường xuyên luồn sâu vào khu vực đặt cơ sở của ta. Anh em ngoài hoạt động trong lĩnh vực báo chí, văn nghệ còn làm nhiệm vụ hậu cần.
"Mỗi lần chuyển gạo từ biên giới Việt – Lào về, phải đi bộ cắt rừng nhiều ngày. Đi đến đâu, mắc võng nghỉ đến đó, tôi người nhỏ nên chỉ cõng được từ 25-30 kí, xuyên rừng, vượt suối, vượt cả những trận mưa rừng. Nhưng nguy hiểm nhất gặp biệt kích Mỹ, phải vòng tránh địch, mất nhiều ngày, phải lấy cả gạo đang cõng mà ăn", ông nói.
Từ năm 1967, chiến trường Khu V rất ác liệt, địch liên tục đổ quân càn quét và bắn phá căn cứ của ta. Lúc này, Ban tuyên huấn Khu V và Tiểu ban Văn nghệ - Báo chí được bố trí hai bên sông Trà Nô (huyện Hiệp Đức, Quảng Nam) để tránh bom đạn địch.
Tổng tiến công, nổi dậy Xuân 1968, nhà báo được trên phân công áp sát thị xã Hội An (Quảng Nam) tiếp quản để tuyên truyền người dân theo cách mạng. Trước thời khắc giao thừa năm ấy, ông xuống vùng ven ở thôn Trà Quế (xã Cẩm Hà, thị xã Hội An), ém mình dưới đó hơn một ngày.
Quân ta được bố trí 2 cánh (phía bắc và phía nam thị xã) tạo gọng kìm bóp nghẹt địch. Trời tối, ông không nhìn rõ người chỉ huy mà chỉ biết anh tên là Phỉ, Thị ủy viên Thị ủy Hội An. Anh Phỉ kéo ông lại và bảo, cánh phía bắc, phải qua nhiều ổ hỏa lực của địch, sợ ông khó cơ động kịp vào nội đô. Vì vậy, anh yêu cầu ông chuyển sang cánh phía nam thị xã để kịp vào lấy thông tin.
"Nghe lời anh Phỉ, tôi vào được thị xã Hội An từ phía nam và tác nghiệp thuận lợi, người dân hưởng ứng. Tuy nhiên, sáng hôm sau, tôi bàng hoàng nghe tin, mũi tiến quân của anh Phỉ gặp nhiều ổ đề kháng của địch, anh đã hi sinh. Tôi nhận ra, chính anh Phỉ đã lường trước sự khốc liệt nên yêu cầu tôi chuyển hướng hành quân để tôi được sống", giọng nhà báo già thảng thốt.
15 năm hạnh ngộ
Sau khi Hiệp định Paris (1973), Cao Duy Thảo được tham gia công tác giám sát đình chiến. Tại đây, ngòi bút của nhà báo sang cuộc chiến mới – cuộc chiến giành đất, giành dân, cắm cờ cách mạng...vừa nguy hiểm vừa phải đấu trí với địch.
Hàng loạt bản tin, bút ký của ông không chỉ đăng trên Tạp chí mà còn được gửi đăng Thông tấn xã Việt Nam, Đài Phát thanh Giải phóng, báo Cờ Giải phóng… góp phần đập tan luận điệu xuyên tạc về cuộc chiến đấu của quân và đồng bào miền Nam.

Nhà báo Cao Duy Thảo (ngồi bên phải) cùng các nhà văn, nhà báo, văn nghệ sĩ tại vùng rừng Trà My (Quảng Nam) năm 1970. (Ảnh nhân vật cung cấp)
Nhà báo, nhà văn Cao Duy Thảo, sinh năm 1943, ở Phù Cát, Bình Định, bố là thầy giáo thường giúp đỡ cán bộ nằm vùng, anh trai hoạt động cách mạng từ sớm.
Nhà có hai anh em, đến năm 12 tuổi, Thảo được tổ chức cho ra miền Bắc học tập. Hết lớp 10, Thảo thi vào trường Sân khấu điện ảnh. Đề tài tốt nghiệp của chàng sinh viên là kịch bản "Đồng chí", ca ngợi hoạt động mưu trí, dũng cảm trong lòng địch của các chiến sĩ ở miền Nam.
Kịch bản của Thảo tuy không được dựng thành phim nhưng gây được sự chú ý của nhiều người. Khi được Thứ trưởng Bộ Văn hóa Hà Huy Giáp hỏi nguyện vọng công tác, anh nói luôn muốn được vào chiến trường miền Nam. Bạn bè biết chuyện, lo Thảo thân hình nhỏ bé, vào chiến trường sẽ không trụ nổi. Nhiều người tiếc cơ hội tốt mà anh không đề đạt nguyện vọng đi học ở Liên Xô.
Tháng 8/1966, sau 2 tháng huấn luyện vượt rừng ở Hòa Bình, Thảo cùng những kỹ sư, bác sĩ, văn nghệ sĩ... chính thức hành quân vào chiến trường miền Nam. "Xe chở đoàn công tác vào đến Quảng Bình, rồi từ đây tôi cùng đồng đội đi bộ vượt Trường Sơn sang Lào để vào chiến trường Khu V. Trên đường, đoàn vừa đi vừa đề phòng địch ném bom tọa độ. Nhiều người bị sốt rét phải nằm lại giữa rừng sâu nước bạn Lào".
Viết báo và chiến đấu ở chiến trường Khu V ròng rã 6 năm trời những mãi đến đầu năm 1970, Cao Huy Thảo mới được về thăm quê (ở Phù Cát, Bình Định), trở lại ngôi nhà tuổi thơ mà anh đã rời xa 15 năm.
"Cấp trên bố trí bốn du kích đưa tôi về nhà trong đêm. Hai mẹ con ôm nhau khóc trong vui sướng. Mẹ kể, sau khi con đi học, nhiều năm sau ba bị bệnh rồi mất. Anh trai chiến đấu và hi sinh trong một trận càn. Tôi nấc lên, mắt nhòa đi", nhà báo già đứt giọng, mắt ngấn nước.
Gần 10 năm vào sinh ra tử trên chiến trường, non sông liền một dải, nhà báo Cao Duy Thảo được điều về Ty Văn hóa Bình Định làm việc, rồi được cử đi học Trường viết văn Nguyễn Du (Khóa I). Sau đó, ông về Ban Tuyên giáo tỉnh Phú Khánh (cũ) làm công tác quản lý báo chí-văn nghệ. Thời gian sau, ông là Chủ tịch Hội Văn học-Nghệ thuật Khánh Hòa 10 năm (1994-2004) rồi nghỉ hưu.
Ký ức những năm tháng chiến trường Khu V thường trực trong cựu phóng viên. Ông liên tiếp cho ra đời nhiều bút ký "Dấu trầm luân một thuở đã sang trang", "Xứ bình yên", "Ven rừng ký ức"; các truyện ngắn "Thời gian", "Ngọn đèn", "Ở một ngả vùng ven"…
Rong ruổi làm báo nhiều năm trên chiến trường Khu V, mãi đến năm 36 tuổi ông mới lập gia đình. Đến nay, hai con của ông đều công tác trong lĩnh vực báo chí của tỉnh Khánh Hòa. Mặc dù đã bước sang tuổi 82 nhưng ông gắn với nghiệp viết lách, cộng tác cho các báo.
Ghi lời đề tặng cuốn sách mới xuất bản cho phóng viên, ông chia sẻ: "Tôi may mắn được sống trở về, được viết đến giờ này. Đồng đội ngã xuống, có người máy ảnh còn đeo trên người, có người vượt sông tránh địch trong đêm bị nước cuốn, thi thể trong hốc cây, tay vẫn nắm chặt tài liệu bọc kín trong túi ni lông".
Nguồn Xây Dựng: https://baoxaydung.vn/ky-uc-lam-bao-chien-truong-khu-v-192250620180314837.htm