Lợi thế từ 'tài nguyên văn hóa' và giải pháp để phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam
Tuần qua, một trong những sự kiện nhận được sự quan tâm của dư luận đó là lần đầu tiên Chính phủ tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc về 'Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam', do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì.
Đây có thể coi là “hội nghị Diên Hồng”, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam.
Là người trực tiếp tham dự hội nghị, PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội đã có những nhìn nhận, chỉ ra một số “điểm nghẽn” cũng như giải pháp để phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta.
+ Thưa Phó giáo sư, dưới góc nhìn của một chuyên gia văn hóa, ông đánh giá như thế nào về tiềm năng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam hiện nay?
- Đại biểu Quốc hội, PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp văn hóa luôn gấp 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP ở tất cả các quốc gia được khảo sát. Không những thế, lợi ích mà các ngành công nghiệp văn hóa còn vượt quá cả những lợi ích vật chất.
Đó là những giá trị tinh thần, đưa những thông điệp quan trọng, hình ảnh hay, câu chuyện truyền cảm hứng của một quốc gia ra thế giới, tạo ra sự phát triển bền vững, hình thành nên sức mạnh mềm vô cùng quan trọng cho đất nước. Và đó cũng là kỳ vọng của chúng ta đối với việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam.
Tôi nghĩ, điểm đặc biệt của công nghiệp văn hóa ở Việt Nam chính là lợi thế so sánh từ tài nguyên văn hóa. Đây là điểm mạnh lớn nhất của Việt Nam khi chúng ta có một kho tàng văn hóa đa dạng, phong phú, của 54 dân tộc anh em, trải qua hàng ngàn năm lịch sử chung sống cùng nhau, tạo ra những nét văn hóa thống nhất trong đa dạng.
Chúng ta cứ xem những di sản văn hóa, cả vật thể và phi vật thể của chúng ta đã được UNESCO ghi danh là có thể biết thế giới đánh giá cao kho tàng văn hóa của chúng ta như thế nào. Chưa kể, bản thân chúng ta cũng cảm nhận được, sự đa dạng, phong phú của văn hóa ở các vùng miền, qua các lễ hội, dân ca, dân vũ, nghề truyền thống, cảnh quan văn hóa, rồi ẩm thực... Tất cả trở thành những chất liệu tuyệt vời cho phát triển công nghiệp văn hóa.
Cùng với đó, ở một mức độ nhất định, chúng ta cũng có thể khẳng định, người Việt Nam là một dân tộc thông minh, yêu thích khám phá, sáng tạo; chúng ta có một đội ngũ văn nghệ sĩ tài năng. Trong lĩnh vực nào, chúng ta cũng có thể điểm tên người Việt Nam tài năng, được thế giới ghi nhận dù đó là toán học hay âm nhạc, điện ảnh. Nếu chúng ta có một môi trường thuận lợi để các tài năng Việt Nam tỏa sáng, tôi tin vào tương lai tươi sáng của các ngành công nghiệp văn hóa của nước ta.
+ Sau 7 năm triển khai thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, ông có đánh giá ra sao về những kết quả mà các ngành công nghiệp văn hóa của chúng ta đã đạt được?
- Đại biểu Quốc hội, PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Qua số liệu ước tính giá trị tăng thêm (giá hiện hành), các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp vào nền kinh tế năm 2018 ước đạt 5,82%; đến năm 2019 ước đạt 6,02%. Năm 2020 và 2021, khoảng 4,32% và 3,92%. Đến năm 2022 ước đạt 4,04%. Chỉ riêng trong năm 2019, doanh thu điện ảnh chiếu rạp đạt trên 4,1 nghìn tỷ đồng.
Trong đó, phim điện ảnh Việt Nam chiếm khoảng 29% doanh thu với khoảng 1,15 nghìn tỷ đồng. Đây là năm doanh thu điện ảnh vượt mức 16% so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược.
Về du lịch văn hóa, năm 2022, tổng thu từ khách du lịch ước đạt 495 nghìn tỷ đồng; tăng 2,75 lần so với cùng kỳ. Trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, hoạt động sáng tác, nghệ thuật và giải trí giai đoạn 2018 - 2022 có sự tăng trưởng. Giá trị sản xuất tăng bình quân 5,59%; giá trị gia tăng của lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn tăng bình quân 5,67%.
Cũng trong năm 2022, doanh thu quảng cáo đạt khoảng 2,192 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng doanh thu của thị trường quảng cáo Việt Nam năm 2022 đạt 12,7%, đứng thứ 5/11 quốc gia ASEAN, xếp thứ 2/11 quốc gia về tốc độ tăng trưởng…
Những con số trên đã cho thấy đóng góp rất đáng nể của các ngành công nghiệp văn hóa vào nền kinh tế quốc dân. Điều này cũng chứng minh được rằng, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là hoàn toàn đúng đắn.
Tôi tin, một khi văn hóa thịnh thì đất nước thịnh; văn hóa nguy vong thì đất nước nguy vong. Như thế, chúng ta rất cần có những sản phẩm văn hóa để chấn hưng văn hóa dân tộc. Chúng ta rất cần có những sản phẩm văn hóa của người Việt Nam, vì người Việt Nam, cho người Việt Nam, và hướng tới lan tỏa giá trị Việt Nam ra toàn cầu nữa. Những gì chúng ta đã làm được trong thời gian 7 năm vừa qua cho chúng ta hy vọng, với những bước đi đầu tiên như vậy, chúng ta sẽ thành công hơn nữa trong thời gian sắp tới.
+ Vậy, theo Đại biểu Quốc hội, đâu là một số “điểm nghẽn” cũng như giải pháp tháo gỡ để phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta trong giai đoạn tới?
- Đại biểu Quốc hội, PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Đúng là so với kỳ vọng của chúng ta, dù đã có một số thành quả ban đầu, nhưng chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận còn có nhiều điểm nghẽn, rào cản đối với việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Đầu tiên vẫn là nhận thức chưa hoàn toàn đúng đắn, đầy đủ về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Ở nhiều nơi, nhiều lúc, nhiều người vẫn coi công nghiệp văn hóa là một lĩnh vực thuần túy kinh tế, ít chứa đựng giá trị văn hóa, chạy theo đồng tiền, nên coi nhẹ các sản phẩm văn hóa, không định hướng, thậm chí buông lỏng quản lý; ngược lại, có nơi, có lúc, có người lại dị ứng với phát triển công nghiệp văn hóa, coi văn hóa là lĩnh vực đặc biệt, cần lánh xa sự chi phối của kinh tế thị trường. Cả hai điều này cần phải được nhận thức lại, thống nhất rõ ràng hơn.
Tôi cho rằng, sản phẩm văn hóa là sản phẩm hàng hóa nhưng có logic đặc biệt, vì thế, nó vừa phải theo đúng quy luật của thị trường như quy luật cung – cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, nhưng vừa phải được điều tiết theo những giá trị đạo đức, nhân văn của văn hóa.
Thứ hai, thể chế, chính sách, luật pháp của chúng ta chưa hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của công nghiệp văn hóa. Dù chúng ta đã có chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, nhưng về luật pháp, chúng ta mới chỉ có Luật Điện ảnh (sửa đổi) năm 2022 là đi theo hướng phát triển của công nghiệp văn hóa.
Hệ thống các chính sách và luật pháp liên quan đến công nghiệp văn hóa còn thiếu nhiều, không chỉ là các luật liên quan đến cả 12 ngành công nghiệp văn hóa, mà còn ở cả các luật có liên quan gián tiếp nhưng có ảnh hưởng rất quan trọng đến phát triển công nghiệp văn hóa như đất đai, thuế, phí, hợp tác công tư, quản lý sử dụng tài sản công, tài trợ và hiến tặng trong lĩnh vực văn hóa...
Thứ ba là nguồn lực, dù đã có nhiều nỗ lực rất nhiều trong thời gian vừa qua, nhưng rõ ràng so với nhu cầu của thị trường và so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguồn lực tài chính (của cả nhà nước và khu vực tư nhân, xã hội) hỗ trợ cho văn hóa chưa tương xứng với nhu cầu phát triển văn hóa nói chung, công nghiệp văn hóa nói riêng…
Để khơi thông nguồn lực phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong giai đoạn tiếp theo, tôi nghĩ, bắt đầu vẫn phải là từ nhận thức đầy đủ, đúng đắn về ý nghĩa, tầm quan trọng của các ngành công nghiệp văn hóa trong sự phát triển bền vững đất nước. Sau đó, chúng ta cần tạo môi trường thông thoáng cho sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Điều này nên xuất phát từ việc tạo ra hành lang pháp lý phù hợp qua việc ban hành, sửa đổi các luật theo hướng thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa phát triển.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quan tâm nhiều hơn đến nguồn lực cho văn hóa, đặc biệt là nguồn nhân lực. Cần tập trung vào giáo dục sáng tạo trong nhà trường qua các môn học STEM và cả nghệ thuật. Chúng ta cần phát triển thị trường nghệ thuật, có những chính sách đãi ngộ tốt, để từ đó người nghệ sĩ có thể sống được bằng nghề của mình, toàn tâm toàn ý cho sáng tạo, và từ đó thu hút được người tài đến với lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; chúng ta cũng cần trang bị những kỹ năng kinh doanh cho các nghệ sĩ, những người làm sáng tạo để họ hiểu được ngôn ngữ của thị trường, biết cách xây dựng và giữ gìn thương hiệu…
+ Trân trọng cảm ơn Phó giáo sư!