Luật Công nghiệp công nghệ số: Động lực để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên số
Luật Công nghiệp công nghệ số, được các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua sáng nay 14-6, đã đưa ra một số bài toán lớn và giải pháp để ngành Công nghiệp công nghệ số trở thành động lực kinh tế chủ đạo, với tốc độ tăng trưởng gấp 2-3 lần GDP.

Đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số. Ảnh:QH
Luật đã thể chế hóa nhiều nội dung quan trọng trong các Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, như: Thúc đẩy, ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp công nghệ số phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài công nghệ số; phát triển hạ tầng công nghệ số thiết yếu, dùng chung; hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo; xây dựng cơ chế đặt hàng và xây dựng khung pháp lý về thử nghiệm có kiểm soát...
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Luật Công nghiệp công nghệ số là một văn bản pháp lý giải quyết các bài toán lớn của ngành công nghiệp công nghệ số, biến công nghệ số thành động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
Điểm đáng chú ý là Luật cụ thể hóa các chính sách ưu đãi đặc biệt và giải pháp đột phá. Các dự án có vốn đầu tư lớn được hưởng ưu đãi giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong nhiều năm, hỗ trợ tài chính từ Quỹ đầu tư phát triển và chi phí nghiên cứu phát triển (R&D) được tính gấp đôi, thậm chí gấp ba đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thủ tục hành chính được đơn giản hóa thông qua cơ chế phân cấp thẩm quyền thành lập khu công nghiệp công nghệ số cho UBND cấp tỉnh và áp dụng chế độ ưu tiên hải quan “luồng xanh”.
Nhà nước ưu tiên đầu tư vào hạ tầng thiết yếu như trung tâm dữ liệu, mạng 5G, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại.
Thị trường nội địa được mở rộng bằng cách thúc đẩy sử dụng sản phẩm công nghệ “Make in Vietnam” trong các dự án ngân sách và đặt hàng phát triển công nghệ chiến lược.
Luật Công nghiệp công nghệ số tập trung nâng cao tỷ trọng sản phẩm công nghệ nội địa trong ngành thông qua các giải pháp chiến lược và chính sách hỗ trợ cụ thể.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được khuyến khích chuyển giao công nghệ và hợp tác với doanh nghiệp trong nước thông qua ưu đãi giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong nhiều năm nếu đáp ứng yêu cầu này.
Doanh nghiệp khởi nghiệp nội địa nhận hỗ trợ 50% kinh phí để mua công nghệ tiên tiến và phát triển mẫu thử, giúp nâng cao năng lực sản xuất sản phẩm “Make in Vietnam”.
Các sản phẩm công nghệ số nội địa được ưu tiên sử dụng trong các dự án ngân sách nhà nước, bảo đảm thị trường đầu ra ổn định và bền vững.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) được hưởng ưu đãi tối đa, bao gồm miễn giảm thuế và hỗ trợ tài chính, nhằm thúc đẩy sáng tạo, đổi mới, giúp sản phẩm Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Luật đặt mục tiêu đưa doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế, gia tăng doanh thu và khẳng định thương hiệu toàn cầu.
Luật đặt mục tiêu đạt 150.000 doanh nghiệp vào năm 2035 và đưa ra các chính sách hỗ trợ toàn diện. Chẳng hạn, doanh nghiệp vừa và nhỏ được hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực chất lượng cao và ưu tiên tham gia đấu thầu các dự án mua sắm công, được Nhà nước hỗ trợ vốn đầu tư cho các dự án đặc biệt và kinh phí đổi mới công nghệ, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực sáng tạo và cạnh tranh…
Luật hướng tới việc tạo ra các doanh nghiệp “đầu tàu” dẫn dắt ngành công nghệ số thông qua các chính sách chiến lược. Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp nghiên cứu và phát triển các công nghệ tiên phong, đồng thời hỗ trợ tài chính và xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường quốc tế.
Để thúc đẩy chuyển đổi số và tăng tỷ trọng doanh nghiệp ứng dụng công nghiệp công nghệ số, Luật triển khai các giải pháp toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh.

Hiệp hội Dữ liệu quốc gia đang xây dựng phát triển nền tảng chuỗi khối quốc gia - NDA Chain. Ảnh: NDA
Để đảm bảo tự chủ công nghệ lõi, công nghệ số chiến lược và bảo đảm chủ quyền an ninh quốc gia về công nghệ, Luật Công nghiệp công nghệ số tập trung vào việc làm chủ công nghệ lõi và công nghệ số chiến lược.
Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp phát triển các công nghệ chiến lược như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), và chuỗi khối (Blockchain), bảo đảm định hướng rõ ràng và nguồn lực dồi dào.
Ngân sách nhà nước ưu tiên phân bổ cho hạ tầng R&D, giúp doanh nghiệp và viện nghiên cứu có đủ điều kiện phát triển các công nghệ lõi, công nghệ số chiến lược, từ đó nâng cao vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ số toàn cầu.
Để khuyến khích đổi mới và phát triển khởi nghiệp sáng tạo, Luật quy định triển khai các chính sách hỗ trợ thiết thực các doanh nghiệp nhỏ và vừa được hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực, và ưu tiên trong đấu thầu các dự án công.
Luật khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng thông qua ưu đãi thuế, đất đai, và tín dụng.
Luật Công nghiệp công nghệ số đưa ra các quy định về chính sách toàn diện cho phát triển nguồn nhân lực. Nhân lực công nghệ số chất lượng cao được miễn thuế thu nhập cá nhân trong 5 năm đầu làm việc tại Việt Nam, tạo động lực tài chính mạnh mẽ để họ đóng góp lâu dài...

Nền tảng định danh và xác thực điện tử VNPT eKYC đã đạt trên 1 tỷ lượt yêu cầu. Ảnh: VNPT
Để thúc đẩy phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) một cách bền vững, an toàn và có trách nhiệm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Luật đưa ra các chính sách khung chung và giao Chính phủ quy định chi tiết.
Luật quy định các nguyên tắc lấy con người làm trung tâm, đảm bảo minh bạch, an toàn và không phân biệt đối xử, với yêu cầu các hệ thống AI phải duy trì sự kiểm soát của con người…
Để tận dụng tiềm năng kinh tế to lớn của tài sản số, đồng thời đảm bảo tính minh bạch, an ninh và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế, Luật Công nghiệp công nghệ số lần đầu tiên đưa ra định nghĩa và quy định khung pháp lý về tài sản số, bao gồm tài sản mã hóa và tài sản ảo, phân loại theo mục đích sử dụng và công nghệ, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng…