Luật hóa chế định thừa phát lại là cần thiết

Việc mở rộng thẩm quyền và giao quyền chủ động hơn cho thừa phát lại trong hoạt động THADS là phù hợp với thông lệ quốc tế, khu vực, thúc đẩy hoạt động tư pháp, phát triển kinh tế, xã hội.

Trong hai số báo trước, Pháp Luật TP.HCM đã giới thiệu về đề xuất mới của Bộ Tư pháp đối với hoạt động của Thừa phát lại trong tổ chức thi hành án (THA) dưới góc nhìn của những người làm công tác thực tiễn.

Nay, Pháp Luật TP.HCM tiếp tục có những trao đổi với các chuyên gia trong lĩnh vực thi hành án dân sự, về đề xuất mới của Bộ Tư pháp.

Trao quyền chủ động THA cho thừa phát lại là phù hợp

ThS Hồ Quân Chính, Trưởng bộ môn Đào tạo các chức danh THADS (Học viện Tư pháp Cơ sở TP.HCM), cho biết số liệu báo cáo của Cục Bổ trợ Tư pháp đã chỉ ra rằng hoạt động xác minh điều kiện THA, tổ chức THADS của các Văn phòng thừa phát lại ngày càng giảm. Nhiều nơi gần như không thực hiện được, chưa hỗ trợ được người dân, doanh nghiệp, tổ chức trong việc tổ chức THADS cùng với cơ quan THADS các cấp… Hoạt động chủ yếu hiện nay vẫn là tống đạt văn bản và lập vi bằng.

 ThS Hồ Quân Chính, Trưởng bộ môn Đào tạo các chức danh THADS (Học viện Tư pháp Cơ sở TP.HCM). Ảnh: NVCC

ThS Hồ Quân Chính, Trưởng bộ môn Đào tạo các chức danh THADS (Học viện Tư pháp Cơ sở TP.HCM). Ảnh: NVCC

“Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng tổ chức THA của thừa phát lại kém hiệu quả những năm gần đây chính là vấn đề thể chế, hành lang pháp lý của thừa phát lại chưa được hoàn thiện’, ThS Hồ Quân Chính đánh giá.

Do đó, theo ông Chính, trong bối cảnh hiện nay, việc đưa các quy định về thừa phát lại vào dự thảo Luật THADS là hết sức đúng đắn. Đây cũng chính là việc cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.

Thừa phát lại phải có vị trí phù hợp trong Luật THADS thì hoạt động của thừa phát lại sẽ hiệu quả hơn, việc xã hội hóa hoạt động THADS mới thực hiện được và như thế mới đúng với mục đích ban đầu của việc xây dựng chế định thừa phát lại ở Việt Nam. Đồng thời nó cũng phù hợp với thông lệ quốc tế về hoạt động của thừa phát lại.

 Thừa phát lại đang làm việc trong một buổi cưỡng chế thi hành án ở giai đoạn thí điểm. Ảnh: TP

Thừa phát lại đang làm việc trong một buổi cưỡng chế thi hành án ở giai đoạn thí điểm. Ảnh: TP

Về đề xuất thừa phát lại có nhiệm vụ, quyền hạn như chấp hành viên (trừ trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế có huy động lực lượng và xử phạt hành chính), hay các thẩm quyền của Trưởng văn phòng thừa phát, ThS Chính cho biết ông cơ bản đồng ý với các quy định tại dự thảo.

Tuy nhiên, cũng theo ông, trước khi dự thảo 3 chính thức được công bố, cơ quan chủ trì soạn thảo đã có những phiên bản dự thảo khác nhau (bản 3.1; bản 3.2) để đưa ra thảo luận, góp ý, tiếp thu chỉnh lý. Trong đó đã từng có đề xuất cho phép Trưởng Văn phòng thừa phát lại được ra quyết định THA. Tuy nhiên, tại bản dự thảo mới nhất thì đề xuất này đã được rút lại, thay vào đó Trưởng Văn phòng thừa phát lại chỉ có quyền kiến nghị Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định thi hành án.

ThS Hồ Quân Chính cho rằng bên cạnh việc giao quyền chủ động THA cho thừa phát lại thì nên cho phép Trưởng văn phòng thừa phát lại được quyền ra quyết định THA.

Ông lý giải, bản chất hoạt động của thừa phát lại và cơ quan THADS có nhiều điểm giống nhau. Ví dụ ở Châu Âu, mặc dù ở mỗi quốc gia có tên gọi khác nhau về chủ thể có thẩm quyền tổ chức THADS và lập vi bằng. Tuy nhiên, Liên minh thừa phát lại Châu âu (UEHJ), có 26 nước thành viên, đều gọi chung là viên chức tư pháp (judicial officer) và họ đều có thẩm quyền tổ chức THA, cưỡng chế THA như chấp hành viên ở nước ta.

Do vậy, việc mở rộng thẩm quyền và giao quyền chủ động hơn cho thừa phát lại trong hoạt động THADS là phù hợp với thông lệ quốc tế. Hơn nữa, việc xã hội hóa, mở rộng thẩm quyền cho thừa phát lại sẽ giảm đáng kể ngân sách cho Nhà nước và tạo thêm lựa chọn cho người dân trong việc sử dụng dịch vụ công.

Theo số liệu báo cáo của Cục bổ trợ Tư pháp thì tính đến cuối tháng 9-2024, số lượng thừa phát lại đang hành nghề là 422 người.

Về số lượng Văn phòng thừa phát lại, ngoài 13 tỉnh, TP trực thuộc Trung ương đã thực hiện chế định thừa phát lại từ thời kỳ thí điểm, đến hết tháng 9-2024, đã có thêm 37 tỉnh, TP trực thuộc Trung ương khác đã thành lập Văn phòng thừa phát lại. Hiện có tổng số 207 Văn phòng thừa phát lại được thành lập tại 50 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Đề xuất cần có Luật Thừa phát lại

Cùng vấn đề, TS Nguyễn Văn Tiến, Phó trưởng Khoa Luật dân sự, Trường Đại học Luật TP.HCM, cho rằng việc trao quyền chủ động THA cho các Văn phòng thừa phát lại sẽ giúp chia sẻ gánh nặng cho các cơ quan THA, phục vụ nhu cầu của người dân, của xã hội tốt hơn.

 TS Nguyễn Văn Tiến, Phó trưởng Khoa Luật dân sự, Trường Đại học Luật TP.HCM. Ảnh: THUẬN VĂN

TS Nguyễn Văn Tiến, Phó trưởng Khoa Luật dân sự, Trường Đại học Luật TP.HCM. Ảnh: THUẬN VĂN

“Tuy nhiên, để thực hiện được nhiệm vụ này cũng là thách thức, khi đòi hỏi đội ngũ thừa phát lại phải đáp ứng được chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng trong tổ chức THA. Cạnh đó là cũng cần có cơ chế giám sát khi trao quyền chủ động tổ chức THA cho thừa phát lại”, TS Tiến nói.

Đáng chú ý, TS Tiến cho rằng việc xã hội hóa một số hoạt động tư pháp những năm gần đây đang được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, đối với chế định TPL kể từ khi thực hiện đề án thí điểm vào năm 2009 đến nay đã hơn 15 năm nhưng việc xã hội hóa lĩnh vực này vẫn chưa đạt được kỳ vọng.

So sánh với các hoạt động có tính chất bổ trợ tư pháp giống như thừa phát lại là công chứng, luật sư, đấu giá thì có thể thấy pháp luật về thừa phát lại chưa xứng tầm với vị trí, vai trò của hoạt động này trong đời sống và nhu cầu của xã hội. Hoạt động bổ trợ của thừa phát lại không chỉ giúp cho hoạt động tư pháp tiến hành thuận lợi, nhanh chóng, mà còn tạo điều kiện để công dân, tổ chức bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

“Khi các các hoạt động bổ trợ tư pháp tương tự đều đã được luật hóa (có luật riêng để điều chỉnh) thì hoạt động thừa phát lại mới chỉ dừng ở việc điều chỉnh bằng nghị định.

Cạnh đó, số lượng văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh cũng hạn chế khiến cho sự hiện diện của hoạt động này trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động tư pháp còn hạn hẹp. Hơn nữa các quy định hiện nay về thừa phát lại mang tính xây dựng các quy định về mô hình của thừa phát lại nhiều hơn so với nội dung hoạt động, nhiệm vụ được giao”, TS Tiến đánh giá.

Từ đó, TS Tiến cho rằng cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thừa phát lại, cụ thể là phải xây dựng Luật Thừa phát lại. Việc xây dựng Luật Thừa phát lại sẽ tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của thừa phát lại, phù hợp với pháp luật quốc tế, khu vực, thúc đẩy hoạt động tư pháp, phát triển kinh tế, xã hội.

Giải pháp để nâng cao năng lực thừa phát lại

Để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới trong hoạt động tổ chức THADS thì đòi hỏi sắp tới phải nâng cao năng lực của thừa phát lại bằng các giải pháp như: Tăng cường đào tạo và nâng cao trình độ thực tiễn; đẩy mạnh phổ biến kinh nghiệm và xây dựng quy trình chuẩn; thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ và phản hồi từ người sử dụng dịch vụ; hoàn thiện các tiêu chuẩn hành nghề và điều kiện thành lập văn phòng và Tăng cường vai trò định hướng và hỗ trợ kỹ thuật từ cơ quan nhà nước.

Tiếp đến là cần có cơ chế kiểm soát các hoạt động của thừa phát lại để đảm bảo tính tuân thủ pháp luật và định hướng hoạt động của thừa phát lại mang tính chuyên nghiệp, minh bạch và công bằng.

Cụ thể, có thể xây dựng cơ chế kiểm soát theo hướng đặc thù đối với hoạt động của thừa phát lại, bảo đảm không chồng lấn thẩm quyền giữa cơ quan kiểm sát với cơ quan quản lý chuyên ngành, phù hợp với bản chất xã hội hóa của mô hình thừa phát lại.

Giám sát gián tiếp thông qua báo cáo định kỳ, kiểm tra chuyên đề thay vì can thiệp trực tiếp, thường xuyên vào hoạt động nghiệp vụ. Việc kiểm sát cần tập trung vào tính tuân thủ pháp luật, không can thiệp sâu vào nội dung công việc chuyên môn của thừa phát lại.

Tiếp đến là sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành để quy định rõ giới hạn kiểm tra, giám sát của VKS và Hội đồng THA, tránh tình trạng lạm quyền hoặc buông lỏng trong quản lý.

Cạnh đó là tăng cường đối thoại, tập huấn chung giữa thừa phát lại và các cơ quan kiểm sát, THA nhằm thống nhất nhận thức pháp lý, cách tiếp cận và xử lý nghiệp vụ trong thực tiễn.

Thừa phát lại LÊ MẠNH HÙNG, Chủ tịch Hội thừa phát lại TP.HCM

HỮU ĐĂNG

Nguồn PLO: https://plo.vn/video/luat-hoa-che-dinh-thua-phat-lai-la-can-thiet-post855409.html