Luật Thủ đô 2024: thể chế đột phá để Hà Nội tăng tốc phát triển
Với những mục tiêu phát triển mới, Luật Thủ đô đã được sửa đổi, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm nguồn lực hướng đến khát vọng xây dựng Thủ đô văn minh, văn hiến, hiện đại; tạo đà để Hà Nội tăng tốc phát triển.
Hướng tới đô thị thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn
Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: “Xây dựng và thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách để phát triển Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị hiện đại, thông minh, dẫn dắt và tạo hiệu ứng lan tỏa, liên kết vùng đô thị. Sử dụng các công cụ quy hoạch đô thị, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ thị trường khác để điều tiết, kiểm soát chặt chẽ sự gia tăng dân số đô thị... xây dựng khung pháp lý cho phát triển đô thị thông minh, quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị và không gian ngầm đô thị”.

Một góc Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng
Trích dẫn
Trích dẫn 1
Ngày 28/6/2024, tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Thủ đô (sửa đổi) và được Chủ tịch nước công bố tại Lệnh số 09/2024/L-CTN ngày 23/7/2024. Luật Thủ đô 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2025, riêng các quy định về quản lý, sử dụng không gian ngầm; thành lập khu phát triển thương mại và văn hóa; phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; thử nghiệm có kiểm soát; thực hiện hợp đồng xây dựng - chuyển giao có hiệu lực từ ngày 1/7/2025.
Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định mục tiêu đến năm 2030: “Thủ đô Hà Nội là Thành phố Văn hiến - Văn minh - Hiện đại; trở thành trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; hội nhập quốc tế sâu rộng, có sức cạnh tranh cao với khu vực và thế giới, phấn đấu phát triển ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực”…
Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt ra nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: “hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng mang tính đột phá; xây dựng thể chế liên kết vùng đủ mạnh, bảo đảm hiệu quả điều phối, liên kết phát triển vùng”.
Ngày 21/11/2012, Quốc hội đã thông qua Luật Thủ đô, có hiệu lực từ ngày 1/7/2013 (Luật Thủ đô năm 2012). Qua 10 năm thi hành, Luật Thủ đô năm 2012, việc thực hiện một số mục tiêu, giải pháp, quy định đề ra trong Luật còn nhiều tồn tại, hạn chế trong các lĩnh vực: Xây dựng, hoàn thiện thể chế và quản lý thực hiện quy hoạch chung, quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành, nhất là trong quy hoạch quản lý không gian, không gian ngầm, công trình kiến trúc cổ, bảo tồn và phát triển văn hóa và quy hoạch xây dựng nhà ở, khu đô thị; Quản lý, sử dụng đất, nhất là đất sử dụng cho các công trình hạ tầng kỹ thuật, giao thông, hạ tầng xã hội, văn hóa, tôn giáo, công trình công cộng phục vụ cộng đồng, dân cư; Cơ chế tài chính, chính sách liên kết vùng, nhất là các chính sách thu hút nguồn lực, thu chi ngân sách để thúc đẩy đầu tư phát triển; Quản lý dân cư, bảo vệ Thủ đô, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; Chính sách an sinh xã hội, phát triển giáo dục, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường...
Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế nêu trên là do pháp luật về Thủ đô chưa đầy đủ, chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế, chính sách để phát triển Thủ đô với vị trí, vai trò là trái tim của cả nước. Để kịp thời thể chế hóa quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển Thủ đô Hà Nội theo tinh thần Nghị quyết số 15-NQ/TW, Nghị quyết số 06-NQ/TW, Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị và các chủ trương của Đảng tại các nghị quyết có liên quan; khắc phục những tồn tại, hạn chế; tạo cơ sở pháp lý thực hiện các cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội, huy động mọi nguồn lực, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của Thủ đô, với mục tiêu xây dựng Thủ đô Hà Nội “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại”, trở thành trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; hội nhập quốc tế sâu rộng, có sức cạnh tranh cao trong khu vực và trên thế giới, phấn đấu phát triển ngang tầm với thủ đô các nước phát triển trong khu vực như mục tiêu Bộ Chính trị đề ra, việc ban hành Luật Thủ đô (sửa đổi) là rất cần thiết.
Theo Bộ Tư pháp, mục tiêu xây dựng Luật Thủ đô (sửa đổi) nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý; xây dựng cơ chế đặc thù, vượt trội; xây dựng, phát triển Thủ đô với vị trí, vai trò là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa, hướng tới đô thị thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn; phát triển nhanh, bền vững, có sức lan tỏa để thúc đẩy vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước cùng phát triển.
Quan điểm xây dựng Luật Thủ đô (sửa đổi) nhằm thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển Thủ đô tại Nghị quyết số 15-NQ/TW, các chủ trương có liên quan đến phát triển Thủ đô tại Nghị quyết số 06-NQ/TW, Nghị quyết số 30-NQ/TW và các nghị quyết khác của Đảng có liên quan.

Một góc Công viên hồ Phùng Khoang. Ảnh: Hồng Thái
Đồng thời, quy định các cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội cho Thủ đô, bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và tuân thủ Hiến pháp năm 2013. Luật Thủ đô (sửa đổi) cần đặt trong tổng thể hệ thống pháp luật, không phải là đạo luật thay thế toàn bộ hệ thống pháp luật hiện hành, áp dụng riêng cho Thủ đô. Bám sát 9 nhóm chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật Thủ đô (sửa đổi) đã được Chính phủ thông qua để quy phạm hóa tại dự thảo Luật các cơ chế, chính sách cụ thể, thực sự mang tính đặc thù vượt trội và đột phá về thể chế nhằm phát huy thế mạnh của Thủ đô.
Cụ thể hóa tối đa các cơ chế, chính sách đặc thù trong Luật để áp dụng được ngay; những vấn đề cần ủy quyền lập pháp thì nên ủy quyền cho các chủ thể có thẩm quyền quy định theo pháp luật hiện hành, bảo đảm tính khả thi và tính đồng bộ. Đồng thời, với việc phân quyền mạnh mẽ, cần quy định tương ứng trách nhiệm của Hà Nội và quy trình, thủ tục, cũng như cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của các cấp chính quyền Thành phố.
Cùng với đó, kế thừa, phát triển các quy định của Luật Thủ đô 2012 đã được triển khai thi hành hiệu quả trên thực tiễn; các cơ chế, chính sách đặc thù đang thí điểm cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phù hợp với Thủ đô. Theo sát quá trình chỉnh lý, hoàn thiện các Luật có liên quan được sửa đổi, bổ sung (tại các Luật: Đất đai, Nhà ở, Kinh doanh bất động sản...) để bảo đảm không quy định trùng lặp lại tại Luật Thủ đô (sửa đổi); nếu chưa được xử lý hoặc nội dung chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Thủ đô thì quy định tại Luật Thủ đô (sửa đổi).
Xây dựng Thủ đô trở thành bộ mặt đại diện cho cả nước
Theo TS Nguyễn Ngọc Bích (Đại học Luật Hà Nội), Thủ đô Hà Nội vừa là trung tâm chính trị, vừa là trung tâm văn hóa. Với vị thế đặc biệt đó, năm 2000, Ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thủ đô và đến năm 2012 thì quy định riêng của Thủ đô được ra đời. Tuy nhiên, trong Pháp lệnh Thủ đô và Luật Thủ đô năm 2012 đang dừng lại ở quan điểm, chính sách và chưa phải là quy định cụ thể. Từ quá trình chính sách đó để triển khai thực hiện, chúng ta phải có những quy định cụ thể. Đó là lý do thứ nhất để sửa đổi Luật Thủ đô.
"Lý do thứ 2, một văn bản pháp luật nào đó được đưa ra cần có thời gian để đánh giá, xem xét xem luật này còn thích hợp hay không. Khi luật không còn phù hợp thì tất yếu phải sửa đổi” - TS Nguyễn Ngọc Bích chia sẻ.
Trao đổi với báo chí, đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường (Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hà Nội) nhấn mạnh, Luật Thủ đô (sửa đổi) được thông qua thể hiện mong muốn tạo ra khuôn khổ pháp lý mang tính chất vượt trội, đặc thù để phát triển được Thủ đô Hà Nội thực sự là đại diện cho cả quốc gia, “xây dựng Thủ đô trở thành bộ mặt đại diện cho cả nước”.
Luật Thủ đô (sửa đổi) cũng như các quy hoạch Thủ đô phải hướng đến giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay. Ví dụ, theo quy định của pháp luật, nhiều khu vực nằm trong ranh giới nội đô lịch sử bị khống chế về đầu tư cải tạo. Điều này dẫn đến nhiều khu chung cư cũ không được cải tạo; nhiều khu nhà tự xây không bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật, an toàn phòng, chống cháy nổ, điều kiện môi trường sinh hoạt nhưng không có cơ chế cải tạo.
Thế nên, Luật Thủ đô (sửa đổi) phải tạo khuôn khổ pháp lý để khu vực nào đúng nghĩa là khu bảo tồn sẽ được bảo vệ giá trị lịch sử về Thăng Long - Hà Nội hay các công trình kiến trúc quan trọng, có yếu tố lịch sử. Còn lại, các khu khác phải đưa ra mô hình đầu tư cải tạo theo hướng đô thị hiện đại, không thể để Thủ đô phát triển tự phát; người dân tự xây dựng theo ý chí chủ quan, không theo tiêu chuẩn quy hoạch của đô thị lớn.
Đối với những khu vực không bảo đảm an toàn về phòng cháy, chữa cháy, không có không gian cho cứu nạn, cứu hộ, hay không có không gian cho sinh hoạt công cộng phải đưa vào phương án cải tạo, giải quyết tất cả những bức xúc đang tồn tại theo hướng phát triển văn minh, hiện đại. Nếu cải tạo tốt sẽ tạo ra các khu có giá trị, kinh tế cao. Do đó, phải tạo ra khuôn khổ pháp lý như khai thác không gian ngầm, không gian trên cao, có hệ thống công trình hạ tầng công cộng hiện đại như hệ thống giao thông công cộng có khối lượng vận chuyển lớn như đường sắt đô thị.
Phát triển Thủ đô là cả quá trình chứ không thể đong đo bằng thời gian ngắn. Chúng ta đặt ra mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam phải là nước thu nhập cao, ngang tầm với các nước phát triển. Quy hoạch Thủ đô cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2050, Hà Nội là Thủ đô đứng hàng đầu các nước trong khu vực, ngang tầm với thủ đô các nước tiên tiến trên thế giới.
“Lộ trình đó đạt được hay không phụ thuộc vào khai thác quy chế, cơ chế đã được đưa ra đặc thù vượt trội cho Thủ đô; đòi hỏi sự quyết tâm cao không chỉ của chính quyền Thủ đô trong chuyển đổi mà còn sự tập trung nguồn lực rất lớn của xã hội để tạo ra bộ mặt cho đất nước thực sự đột phá, xứng tầm với nước phát triển vào năm 2045” - đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường nêu quan điểm.
Đồng quan điểm, TS Lê Duy Bình - Giám đốc điều hành Economica Việt Nam cho hay, Luật Thủ đô không chỉ phục vụ cho Thủ đô, không chỉ phục vụ cho nền kinh tế Thủ đô mà còn phục vụ cho việc phát triển của cả đất nước. Như thế, Luật Thủ đô phải có những cơ chế mới, những cơ chế mang tính chất đặc thù, vượt trội để đẩy nhanh hơn nữa sự phát triển của Thủ đô, đạt được các mục tiêu đề ra...