Mùa nước nổi nơi đầu nguồn
Năm nay, mùa nước nổi về sớm hơn mọi năm. Con nước tràn đồng, mang theo phù sa và sản vật thiên nhiên đến với người dân vùng thượng nguồn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Còn người dân hạ nguồn vẫn đang loay hoay thích ứng với sự thay đổi của con nước lớn, ròng...
“Con cá dìa theo con nước”
Những ngày này, tại các cánh đồng khu vực đầu nguồn của tỉnh An Giang, nước đã tràn bờ. Đây là thời điểm “vàng” để người dân đánh bắt thủy sản, thu hoạch sản vật thiên nhiên ban tặng. Tờ mờ sáng, trên cánh đồng xã Nhơn Hội, một xã đầu nguồn của tỉnh An Giang, ông Hồ Văn Phát cùng vợ đang thăm dớn. Mẻ dớn đầu cho nhiều cá, ông hào sảng: “Năm nay cá mắm được hơn năm ngoái. Nước về sớm nhưng không ồ ạt, nó lên từ từ, cầm chừng, có thời gian cho con cá sinh sản, phát triển. Lát gởi mấy chú mớ chạch đồng về lai rai”.

Ngư dân đánh bắt cá trên cánh đồng đầu nguồn thuộc tỉnh An Giang.
Chiếc ghe của chúng tôi cặp sát vỏ lãi của ông Phát, nghe vợ chồng ông vừa tất bật kéo dớn, vừa kể chuyện “nghề bà cậu” đã gắn với cả cuộc đời hai người. Có thời gian, vợ chồng ông qua Campuchia để thuê đồng đánh bắt cá. Tuy nhiên, 5 năm trở lại đây ông về đồng khu vực đầu nguồn An Phú để đặt dớn, vì hiện nay việc đi lại qua Campuchia rất khó khăn, giá thuê đồng lại cao, cá tôm ít hơn những năm trước. Ghe chúng tôi rời đi, ông Phát nói vọng theo: “Mùa nước năm nay đẹp quá, hy vọng bội thu”.
Theo ông Nguyễn Văn Gàng, Trưởng ấp Phú Thuận, năm nay, nước đầu nguồn đổ về sớm hơn năm ngoái hơn 1 tháng, cao hơn 30cm. Nước lên từ từ, thuận lợi cho cá, tôm sinh trưởng và phát triển.
Xa xa những ánh đèn của ghe lưới, ghe câu đan xen vào nhau tạo nên khung cảnh tất bật, rộn ràng nơi cánh đồng vùng biên giới. Gia đình ông Võ Văn Lê (ngụ xã Nhơn Hội không có ruộng đất, chỉ đi làm mướn và trông chờ vào 6 tháng mùa nước nổi để ra đồng đánh bắt cá. Mùa nước năm nay, gia đình ông Lê đặt gần 20 cái dớn. “Chừng hơn nửa tháng rồi, bữa trúng thì cũng gần 100 ký cá, còn trung bình tầm 50 - 60 ký. Chủ yếu là cá linh, cá chốt…”. Ông Lê chia cho biết thêm, giá bán cá cũng tăng hơn mọi năm chút đỉnh.
Hừng đông, trời rõ mặt, ông Nguyễn Văn Gàng chở chúng tôi đến chợ cá đồng Kênh Ruột. Cứ đến mùa nước nổi, cái chợ cá rặt đồng này lại tụ họp giữa cánh đồng xã Nhơn Hội, bốn bề mênh mông nước, từ khoảng 4 giờ cho đến khoảng 11 giờ, từ 5 giờ đến 9 giờ là nhộn nhịp nhất. Ghe lớn của thương lái cấm sào dọc theo chiều con nước, vỏ lãi, ghe nhỏ của ngư dân cặp vào bán cá. Người mua người bán cười nói rôm rả cả cánh đồng nước nổi.
Ông Lê Thanh Điền (xã An Phú), một thương lái thu mua cá, cho biết: “Năm nào cũng vậy, khoảng tháng 6-7 âm lịch là tôi lại đậu ghe ở đây rồi. Gặp được nước lên là mừng lắm, mùa màng đến rồi, có nước là có cá, có cá là có cơm, có cá là có lúa rồi… Tôi lên xã Phú Hội này thu mua cá được 21 năm rồi. Năm nay thì thấy cá nhiều hơn năm ngoái. Năm ngoái không có nước, năm nay nước đỡ hơn. Mỗi ngày tôi thu mua được khoảng 700-800kg cá các loại”.
Bà Nguyễn Thị Thia, ngụ xã Nhơn Hội, nhiều năm làm thương lái tại chợ này cho biết, mỗi ngày thu mua hơn 1 tấn cá linh. Còn các loại cá khác thì ít, chỉ khoảng hơn 100kg. Năm ngoái, cá chốt sọc, chốt giấy có nhiều, nhưng năm nay lại ít, cá linh thì có nhiều hơn năm ngoái.
Ông Gàng cho biết thêm, trước đây khi chưa làm hệ thống đê bao trồng lúa vụ 3, mỗi mùa nước về, các cánh đồng ở khu vực biên giới này đều ngập sâu, nước rút ra từ từ nên các loại thủy sản có thời gian sinh trưởng; cá, tôm, cua, ốc, chuột… nhiều vô số kể. Người dân vùng này sống chủ yếu nhờ vào 6 tháng mùa nước nổi, cố gắng làm để dành dụm tiền. Có những người làm kiếm được 100-200 triệu, sống cũng được. Tới mùa khô người dân lại đi làm mướn.
Nắng lên cao, tiếng xuồng ghe thưa dần, cũng là thời điểm kết thúc một buổi họp chợ. Cái nắng của vùng biên trên cánh đồng mênh mông nước đỏ nặng phù sa, chúng tôi đã phần nào cảm nhận được không khí tất bật, sự niềm nở, vui vẻ của người dân khi con cá dìa theo con nước.
Ký ức con nước lớn, ròng
Ở miền Tây, từ xa xưa, nhịp thủy triều lên, xuống đã trở thành một hệ thống kiến thức thực hành, là lịch tự nhiên để giúp con người hòa nhịp cùng dòng sông. Nước lớn, nước ròng là khi nước dâng lên, hạ xuống theo chu kỳ 2 lần trong ngày. Còn nước rong là nước lên cao nhất trong tháng, thường rơi vào ngày rằm và ngày 30 âm lịch, kéo dài 3 - 5 ngày. Trong khi đó, nước kém là những ngày nước thấp, giữa tháng, là giai đoạn triều yếu nhất, thường vào mùng 8 - 9 hoặc 23 - 24 âm lịch.
Các khái niệm về con nước không chỉ là từ ngữ, mà là bản đồ sinh thái và lịch thủy văn truyền miệng. Từ đó, giúp người dân biết lúc nào thì đánh bắt cá, khi nào thì lấy nước vào ruộng vườn tưới tiêu, đi ghe thuận dòng theo con nước… Người dân miền Tây canh theo con nước để canh tác, sản xuất nông nghiệp. Giả dụ như, nước lớn thì thả lú, giăng lưới, đặt nò, giở nắp ống bọng lấy nước vô ruộng vườn. Nước ròng thì đi chài, sửa lại bờ bao, vét mương, tát ao…
Không chỉ canh con nước để đi đồng, đi ruộng, ông bà ngày xưa còn canh con nước để đi thăm bà con, đi giao lưu, cái thuở di chuyển bằng thuyền, ghe là chính. Tình cảm con người cũng theo nhịp nước, lấy con nước lớn, ròng làm mốc hẹn thời gian.

Cá linh là đặc sản mùa nước nổi ở miền Tây.
Khoảng hơn 20 năm trở lại đây, từ “triều cường” xuất hiện với tần suất dày đặc, mỗi khi con nước dâng cao bất thường. Thế nhưng, ở miền Tây, “triều cường” lại rất tối nghĩa. Nó không cho biết nước lên cao do đâu, lúc nào trong ngày, trong tháng, sẽ kéo dài bao lâu, ngập mấy lần mỗi ngày. Nó chỉ mang tính cảm giác như một hiện tượng bất thường, không có lợi. Nghiêm trọng hơn, nếu các nhà quy hoạch, kỹ sư đô thị hay chuyên viên môi trường cũng không hiểu về nhịp nước thì các thiết kế chống ngập, xây cống, làm bờ bao… rất dễ rơi vào tình trạng “chạy theo nước” mà không đón đầu được nhịp nước. Đó là lý do nhiều nơi chống ngập mà vẫn ngập.
Theo Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái, Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển Đồng bằng sông Cửu Long nhấn mạnh, cần thích ứng với quy luật tự nhiên, thay vì cố gắng kiểm soát hoặc áp đặt lên nó. Muốn thuận thiên, trước hết phải hiểu thiên nhiên đang nói gì. Mà để hiểu được, ta cần có ngôn ngữ phù hợp.
Việc khôi phục lại các thuật ngữ thủy triều truyền thống là bước đầu tiên trong hành trình đó. Cụ thể hơn là chính sách quản lý và truyền thông cần được điều chỉnh để khôi phục lại khả năng “nghe tiếng nước” của cộng đồng. Các bản tin dự báo khí tượng tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long cần bổ sung hoặc thay thế cụm từ “triều cường” bằng cách diễn đạt chính xác hơn. Các cơ quan báo chí, truyền thông cũng nên sử dụng đúng ngôn ngữ của người dân bản địa, thay vì vay mượn từ ngữ chung chung, lạnh lùng.
Bên cạnh đó, không thể sống bền vững trên một vùng đất nếu không hiểu được nhịp đập của nó. Ví như vùng Đồng bằng sông Cửu Long là một cơ thể sống và con nước là mạch máu, là hơi thở. Để sống hài hòa với nơi này, ta cần nghe lại tiếng nước bằng chính ngôn ngữ mà ông bà đã để lại.
Tri thức bản địa là vốn quý không thể tái tạo nếu đánh mất. Những từ như “nước rong”, “nước ròng”, “nước kém” không chỉ là từ ngữ, mà là biểu tượng của sự hiểu biết sâu sắc, lâu đời và thực tiễn, thứ mà mọi mô hình phát triển hiện đại nên học hỏi, chứ không cần phải thay thế. Việc làm mờ tri thức bản địa này không chỉ gây lúng túng trong ứng phó, mà còn cản trở việc quy hoạch đô thị, nông nghiệp và giao thông ở đồng bằng.
Nếu không hiểu nhịp nước, làm sao xây dựng hệ thống thoát nước hiệu quả. Nếu không đọc được chu kỳ nước rong, nước kém, làm sao chọn thời điểm xuống giống hay nuôi thủy sản hợp lý. Khi mọi quy luật, định nghĩa theo quy luật vốn dĩ nó nên tồn tại thì dù sống giữa thời đại của biến đổi khí hậu và bê tông hóa, con người miền Tây vẫn giữ được một điều quý giá - khả năng sống thuận thiên, hòa nhịp cùng sông nước, chứ không phải chống lại nó trong vô vọng.
Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/mua-nuoc-noi-noi-dau-nguon-i782605/