Năng lực sản xuất vật liệu xây dựng tăng hàng trăm lần sau 40 năm phát triển

Qua số liệu thống kê, năng lực sản xuất một số loại sản phẩm vật liệu xây dựng quan trọng như xi măng, gốm sứ, kính xây dựng tăng từ vài chục lần đến hàng trăm lần sau 40 phát triển…

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Theo Viện Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng, trước năm 2010, các sản phẩm vật liệu xây dựng chủ yếu của nước ta như: clanhke, gạch gốm ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng vẫn phải nhập khẩu để phục vụ nhu cầu xây dựng trong nước. Tuy nhiên, đến nay, doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng về cơ bản có thể đáp ứng được nhu cầu xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng trên phạm vi toàn quốc, thậm chí không ít sản phẩm còn tham gia vào thị trường xuất khẩu.

ĐÓNG GÓP VÀO GDP NGÀY CÀNG ĐÁNG KỂ HƠN

Qua số liệu thống kê, năng lực sản xuất của một số loại sản phẩm vật liệu xây dựng quan trọng ở nước ta đã tăng từ vài chục lần đến hàng trăm lần sau 40 năm phát triển. Đáng chú ý với mặt hàng sứ vệ sinh, tổng năng lực sản xuất ước tăng 190 lần, từ 0,14 triệu sản phẩm năm 1994 lên 26,6 triệu sản phẩm vào năm 2023. Hơn nữa, sản phẩm có mẫu mã đa dạng, cạnh tranh cùng hàng ngoại nhập và được xuất khẩu đi nhiều quốc gia trên thế giới là Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… Tổng sản lượng xuất khẩu năm 2023 ước đạt 2,1 triệu sản phẩm.

Tương tự, kính xây dựng Việt Nam cũng ghi nhận các con số ấn tượng, khi tổng năng lực sản xuất tăng 57 lần từ 5,8 triệu m2/năm vào năm 1994 lên 331 triệu m2/năm vào năm 2023, đứng trong nhóm nước có sản lượng kính lớn của khu vực Đông Nam Á…

Với những kết quả của ngành, Viện Vật liệu xây dựng cho biết giá trị sản xuất vật liệu xây dựng nói chung tiếp tục tăng lên, tỷ lệ đóng góp vào GDP ngày càng đáng kể hơn. Đến hết năm 2023 đóng góp của sản xuất vật liệu xây dựng cho GDP Việt Nam chiếm tỉ lệ khoảng 6-7%.

Mặt khác, ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng nước ta hiện nay đã bắt đầu hướng đến việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên, đảm bảo an ninh kinh tế; chủ động hội nhập quốc tế; hình thành những điều kiện cơ bản cho nền kinh tế xanh. Phát triển vật liệu xây dựng từng bước được chú trọng theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường. Đặc biệt, trước đòi hỏi ngày càng cao về sự phát triển của ngành công nghiệp vật liệu nói chung và công nghiệp vật liệu xây dựng nói riêng, nhiều sản phẩm vật liệu xây dựng mới ra đời.

Trong đó, một số chủng loại đã và đang bắt đầu được sử dụng tại Việt Nam, như vật liệu xây dựng xanh - loại vật liệu xây dựng thân thiện môi trường, gồm có bê tông tự khôi phục, bê tông xanh, bê tông tính năng siêu cao, đá ốp lát nhân tạo, gạch tự làm mát, gạch không nung, tấm thống minh, kính tiết kiệm năng lượng, cát nhân tạo từ đá hoặc sỏi cuội hay vật liệu composite. Những vật liệu này có độ bền cao, làm giảm thiểu tác động đến môi trường.

Ngoài ra, còn có vật liệu xây dựng ứng dụng công nghệ nano trong sản xuất. Công nghệ nano có tính đột phá và sử dụng rộng rãi ở nhiều lĩnh vực; cho phép thao tác, sử dụng vật liệu ở quy mô phân tử, làm tăng và tạo ra tính chất đặc biệt của vật liệu, giúp giảm kích thước của thiết bị đến kích thước cực nhỏ. Đây được xem là cuộc cách mạng công nghiệp làm thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực xây dựng hiện nay.

NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI VẬT LIỆU XÂY DỰNG MỚI

Tuy nhiên, ông Nguyễn Quang Hiệp, Viện trưởng Viện Vật liệu xây dựng cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong ngành hiện nay như: nhiều lĩnh vực sản xuất được đầu tư với quy mô nhỏ, trung bình; trình độ chế tạo thiết bị cơ khí cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng còn thấp. Năng suất, chất lượng lao động chưa cao, lực lượng lao động qua đào tạo hoặc công nhân kỹ thuật lành nghề chỉ chiếm 15-17%. Ngoài ra, vẫn phụ thuộc nhiều vào yếu tố đầu vào, gồm tài nguyên khoáng sản, công nghệ của nước ngoài, nhiên liệu, năng lượng…; việc sử dụng nguyên liệu, nhiên liệu thay thế, đẩy mạnh kinh tế tuần hoàn trong sản xuất vật liệu xây dựng chưa được quan tâm đầu tư đúng mức.

Theo đó, ông Nguyễn Quang Hiệp kiến nghị ở giai đoạn tiếp theo cần tiếp tục nghiên cứu phát triển vật liệu xây dựng mới, tính năng cao, thân thiện môi trường; phát triển công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng tiết kiệm tài nguyên khoáng sản, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính.

Đồng thời, nghiên cứu ban hành hành lang pháp lý và hành lang kỹ thuật nhằm thúc đẩy kinh tế tuần hoàn ở lĩnh vực vật liệu xây dựng; nghiên cứu sử dụng tro đốt rác thải sinh hoạt, phế thải của ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, xây dựng và bùn thải nạo vét thay thế vật liệu tự nhiên, để sản xuất vật liệu xây dựng và làm vật liệu san lấp; xây dựng đề án đánh giá lại trữ lượng các khu vực khoáng sản làm vật liệu xây dựng để làm căn cứ cho đầu tư sản xuất trong giai đoạn tiếp theo.

Còn đối với doanh nghiệp, ông Lê Trung Thành, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng, nhấn mạnh phải chủ động đổi mới, áp dụng linh hoạt công nghệ cao, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn. Đẩy mạnh hợp tác đầu tư, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ, quản trị doanh nghiệp giúp tiết kiệm nguyên, nhiên liệu, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường.

Mặt khác, doanh nghiệp vật liệu xây dựng cũng cần tập trung triển khai đổi mới, áp dụng công nghệ sản xuất và phương thức quản lý hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm; đa dạng hóa sản phẩm vật liệu xây dựng, phù hợp các loại hình công trình xây dựng, điều kiện khí hậu, vùng miền khác nhau; tăng cường sản xuất sản phẩm vật liệu xây dựng thay thế nhập khẩu đáp ứng nhu cầu thị trường; tìm kiếm, mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm vật liệu xây dựng...

Thanh Xuân

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/nang-luc-san-xuat-vat-lieu-xay-dung-tang-hang-tram-lan-sau-40-nam-phat-trien.htm