Nghi binh - Nghệ thuật quân sự làm nên thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên

'Bản sao kế hoạch Nghi binh' của Trung tướng Khuất Duy Tiến đang được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước.

 Trung tướng Khuất Duy Tiến và bản sao Kế hoạch nghi binh. Ảnh: Báo Giao thông.

Trung tướng Khuất Duy Tiến và bản sao Kế hoạch nghi binh. Ảnh: Báo Giao thông.

Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4/3 đến 3/4/1975), mật danh Chiến dịch 275) là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.

Người chấp bút cho kế hoạch

Thắng lợi của chiến dịch không chỉ làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng và thế chiến lược giữa ta và địch trên toàn miền Nam, mà có ý nghĩa chiến lược to lớn, bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển thành cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam.

Chiến dịch Tây Nguyên cũng là chiến dịch thể hiện sự tài tình và độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, đó là nghệ thuật tổ chức nghi binh, lừa địch, giấu đi hướng tiến công chủ yếu, đánh vào nơi địch sơ hở nhất, đẩy địch vào thế bị động trên chiến trường.

Cuối năm 1974 đầu năm 1975, tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị đã bàn về kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. Sau đó, phương án chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công có ý nghĩa chiến lược trong năm 1975 được thông qua và trận đánh vào Buôn Ma Thuột là trận then chốt. Khó khăn lớn nhất đặt ra lúc đó là tổ chức đột phá vào Buôn Ma Thuột như thế nào.

Thực hiện nhiệm vụ của Trung ương giao phó, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên đã vạch ra phương án tác chiến cũng như kế hoạch cụ thể. Nghệ thuật quân sự nghi binh lừa địch đã được bàn đến và người chấp bút cho kế hoạch hoàn hảo này là Trung tướng, anh hùng lực lượng vũ trang Khuất Duy Tiến (27/2/1931 - 23/11/2024) - Nguyên Trưởng phòng Tác chiến Mặt trận Tây Nguyên.

Về mục đích của nghi binh, theo kế hoạch đầu tiên là làm cho địch không phát hiện được ý định hành động của quân đội ta, đối phó lạc hướng trong một thời gian theo kế hoạch ta đã định trước; thứ hai, là tạo điều kiện cho lực lượng chủ lực cơ động đi làm nhệm vụ chiến dịch được an toàn, bí mật, bất ngờ.

Như vậy, nghi binh là để thu hút và giam chân 8 trung đoàn chủ lực của địch ở lại Bắc Tây Nguyên, không để đối phương về Buôn Ma Thuột trước khi ta nổ súng đánh vào thị xã này; đồng thời tổ chức lực lượng chặt đứt ba con đường chiến lược số 14, 19 và 21 chia cắt đồng bằng với Tây Nguyên cũng như chia cắt phía Bắc và Nam Tây Nguyên.

Đối phương trở tay không kịp

Theo Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp (sách Ký ức Tây Nguyên, NXB Quân đội Nhân dân, 2004), quân đội ta đã lợi dụng điểm yếu của chỉ huy quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng hòa ở Tây Nguyên trong việc thường theo dõi sự di chuyển của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 của ta mỗi khi mùa khô đến và cho rằng hai sư đoàn này ở đâu, ở đó sẽ đánh lớn.

 Trang đầu trong "Bản sao Kế hoạch Nghi binh" của Trung tướng Khuất Duy Tiến.Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

Trang đầu trong "Bản sao Kế hoạch Nghi binh" của Trung tướng Khuất Duy Tiến.Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

Quân ta đã bí mật dùng Sư đoàn 968 thế chỗ để hai đơn vị này chuyển quân xuống phía Nam. Khi di chuyển, hai sư đoàn để lại toàn bộ mạng thông tin vô tuyến, kể cả nhân viên báo vụ. Các đài vô tuyến vẫn duy trì phát sóng đúng giờ tung các báo cáo giả lên sóng điện để đánh lừa sự theo dõi của địch.

Tình báo đối phương yên tâm rằng sư đoàn 10 và 320 vẫn ở vị trí cũ. Bằng biện pháp nghi binh qua làn sóng điện, chúng ta đã thành công trong kế hoạch giam chân bộ phận chủ yếu của quân lực Việt Nam Cộng hòa thuộc Quân khu 2 ở Pleiku và Kon Tum.

Chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu đêm ngày 03 rạng ngày 04/3/1975 với việc chúng ta thực hiện lệnh cắt đường số 19. Trước tình thế con đường huyết mạch nối từ cảng Quy Nhơn lên Sở chỉ huy Quân đoàn 2 ở Pleiku bị cắt đứt, tướng Phạm Văn Phú - Chỉ huy quân Sài Gòn đã tung Liên đoàn biệt động quân số 4 và Tiểu đoàn 3 ra Pleiku, Sư đoàn 22 từ Bình Định vào đường 19 để phản kích.

Trên hướng đường 21, Trung đoàn 25 tấn công địch và làm chủ đoạn đường phía Đông Chư Sê vào ngày 05/3/1975. Khi con đường quan trọng thứ hai từ Nha Trang đi Buôn Ma Thuột bị cắt đứt, Phạm Văn Phú phải nghĩ về Buôn Ma Thuột.

Tuy nhiên, cho đến sáng ngày 9/3/1975 khi chúng ta chuẩn bị nổ súng tấn công Đức Lập, Bộ Tổng tham mưu địch vẫn cho rằng hướng tiến công chính của ta ở Tây Nguyên vẫn là Kon Tum và Pleiku, nếu đánh Buôn Ma Thuột thì cũng phải giữa tháng 4, nhưng không thể đánh lớn.

Theo đúng kế hoạch, quân ta giam chân quân chủ lực của địch ở Bắc Tây Nguyên, chặn các đường tiếp viện, “trói” được địch ở Buôn Ma Thuột để tấn công. Liên tiếp những ngày sau đó, các mũi tấn công của ta nhận lệnh theo kế hoạch đánh chiếm Đức Lập, Buôn Ma Thuột, lần lượt làm chủ các căn cứ của địch và đến ngày 24/3/1975, Tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân hoàn toàn được giải phóng.

Có thể nói, với nghệ thuật “nghi binh” tài tình, quân đội ta đã làm cho đối phương trở tay không kịp. Nghi binh thành công, quân ta đã tạo được thế để đánh bật địch khỏi Tây Nguyên, giải phóng “nóc nhà của Đông Dương” tạo điều kiện và thời cơ mở các chiến dịch tiếp theo, giành thắng lợi tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

“Bản thảo kế hoạch Nghi binh” được Trung tướng Khuất Duy Tiến lưu giữ cẩn thận suốt gần 40 năm. Đến đầu năm 2009, hưởng ứng cuộc vận động sưu tầm và giới thiệu những kỷ vật kháng chiến, ông đã đem kỷ vật ấy tặng Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, còn bản sao của kế hoạch tài tình này được ông trao tặng cho Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

50 năm đã trôi qua, nghệ thuật nghi binh trong Chiến dịch Tây Nguyên vẫn còn nguyên giá trị và nó tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng trong tác chiến bảo vệ Tổ quốc hiện nay và sau này.

Minh Châu - Mai Duyên

Nguồn Znews: https://znews.vn/nghi-binh-nghe-thuat-quan-su-lam-nen-thang-loi-chien-dich-tay-nguyen-post1540737.html