Nghị quyết 57 sẽ có tác động mạnh mẽ tới phát triển hệ thống giáo dục đại học
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao nhất là các ngành STEM, là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa lâu dài của hệ thống GDĐH.
LTS: Những quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đề ra trong Nghị quyết 57 có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới hệ thống giáo dục và đào tạo nói chung và các cơ sở giáo dục đại học nói riêng.
Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Và sứ mệnh của các trường đại học rất lớn trong triển khai thành công Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Để hiểu rõ hơn về vai trò của hệ thống giáo dục đại học trong phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Minh Sơn – Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Phóng viên: Giáo dục đại học hiện có gần 90.000 giảng viên và hơn 2 triệu sinh viên. Thưa Thứ trưởng, đây chính là đội ngũ phát triển khoa học công nghệ mạnh mẽ?
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đề ra những chủ trương, quyết sách rất quan trọng, có tác động rất lớn đối với hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Với đội ngũ giảng viên đồng thời là các nhà khoa học, đặc biệt là số lượng đông đảo sinh viên, học viên sau đại học, các cơ sở giáo dục đại học không chỉ giữ vai trò chủ chốt trong đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mà còn là các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo nòng cốt trong mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Minh Sơn – Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Các trường đại học cũng là nơi tiên phong ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong đổi mới quản trị nhà trường, đổi mới mô hình tổ chức đào tạo, phương pháp dạy và học, đồng thời tham gia với vai trò là trung tâm đào tạo, phát triển năng lực số cho người dân và cho phong trào “Bình dân học vụ số”.
Có thể nói, những quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đề ra trong Nghị quyết 57 đều có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới hệ thống giáo dục và đào tạo nói chung và các cơ sở giáo dục đại học nói riêng. Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học rất phấn khởi, đặt niềm tin và kỳ vọng rất nhiều vào sự phát triển bứt phá các cơ sở giáo dục đại học về hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo từ triển khai Nghị quyết 57 trong giai đoạn tới đây.
Phóng viên: Thứ trưởng có thể chia sẻ về những công việc mà ngành Giáo dục và Đào tạo đã, đang và sẽ triển khai trong thời gian tới để hoàn thành các mục tiêu đề ra trong Nghị quyết 57 liên quan đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao các ngành khoa học, kỹ thuật và công nghệ và toán (STEM)?
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Nghị quyết 57 đã chỉ rõ 5 nội dung trọng tâm, cốt lõi bao gồm thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược, nhấn mạnh quan điểm chú trọng bảo đảm nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; có cơ chế, chính sách đặc biệt về nhân tài.
Trong bối cảnh mới, nước ta có cơ hội lớn để thu hút đầu tư và phát triển các lĩnh vực công nghệ chiến lược, như vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, công nghệ sinh học, năng lượng mới và vật liệu tiên tiến, cũng như các lĩnh vực ứng dụng những công nghệ đó. Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, điểm nghẽn lớn nhất của Việt Nam hiện nay là sự thiếu hụt đội ngũ nhân lực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán (STEM) có trình độ, kỹ năng đáp ứng yêu cầu của các tập đoàn công nghệ lớn.
Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao nhất là trong các ngành STEM, là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa lâu dài của hệ thống giáo dục đại học.

Ảnh: nguồn Đại học Phenikaa
Ngay sau khi Nghị quyết 57 được ban hành, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp tham mưu Chính phủ về những nội dung về phát triển nguồn nhân lực trong Chương trình hành động của Chính phủ, trên cơ sở đó xây dựng và tổ chức triển khai kế hoạch thực hiện trong toàn ngành, trong đó nhiều nhiệm vụ liên quan tới cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là trong các ngành STEM.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã xây dựng và trình Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm, trong đó xác định mục tiêu, định hướng phát triển về quy mô, cơ cấu trình độ đào tạo và mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học đào tạo các ngành STEM. Trước đó, Bộ cũng phối hợp xây dựng trình Thủ tướng phê duyệt Chương trình phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp bán dẫn cũng đã được Thủ tướng phê duyệt.
Bên cạnh đó, Bộ cũng đã trình Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển hệ thống trung tâm đào tạo xuất sắc và tài năng về công nghệ 4.0, Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao và một số đề án đầu tư, nâng cấp các cơ sở giáo dục đại học. Các chương trình, quy hoạch và đề án nêu trên đã xác định rất nhiều nhiệm vụ, giải pháp cụ thể mà toàn ngành phải triển khai trong thời gian tới, liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực STEM.
Nguồn nhân lực STEM là lực lượng chủ yếu và nòng cốt của nhân lực công nghệ cao, là yếu tố phản ánh năng lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo hay là năng lực cạnh tranh cốt lõi của của mỗi quốc gia. Nhu cầu nhân lực STEM gia tăng nhanh hơn so với mức chung trong nhiều năm qua và dự báo trong nhiều năm tới, đồng thời mức thu nhập trung bình của nhân lực STEM cao hơn mức chung của toàn lực lượng lao động.

Ảnh: nguồn Đại học Phenikaa
Với xu thế toàn cầu hóa và dịch chuyển tự do trong thị trường lao động, các cường quốc đều có chiến lược rõ ràng, hành động mạnh mẽ và nguồn lực hỗ trợ rất lớn cho cạnh tranh, thu hút và phát triển đội ngũ nhân lực tài năng STEM. Xu thế này mở cơ hội lớn cho các trường đại học có thế mạnh về khoa học – công nghệ mở rộng quy mô đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực STEM cho thị trường trong nước, khu vực và toàn cầu, nhưng đồng thời cũng đặt ra thách thức lớn về nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Hiện toàn ngành đã, đang và sẽ phải nỗ lực làm rất nhiều việc để ngày càng có nhiều người giỏi theo học và hành nghề trong các lĩnh vực STEM, ngày càng có nhiều giảng viên giỏi giảng dạy và nghiên cứu trong các lĩnh vực STEM và ngày càng có nhiều trường đại học tốt, có danh tiếng tầm cỡ khu vực và thế giới về các lĩnh vực STEM. Muốn đạt được như vậy sẽ có rất nhiều việc phải làm, từ tăng cường hỗ trợ người học, phát triển đội ngũ giảng viên, đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy cho tới tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, tăng cường hợp tác đào tạo và nghiên cứu với trường đại học danh tiếng và các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới.
Phóng viên: Nghị quyết 57 đặt mục tiêu đến năm 2030 bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển. Theo Thứ trưởng hình dung đến năm 2030, nghiên cứu khoa học tại Việt Nam sẽ có diện mạo ra sao và góp phần để Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia như thế nào?
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Những mục tiêu lớn về phát triển khoa học, công nghệ đã được xác định trong Nghị quyết 57, nhưng để đạt được những mục tiêu này thì bên cạnh nguồn lực từ ngân sách nhà nước cần sự quyết tâm rất cao, nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, các trường đại học, viện nghiên cứu và đặc biệt là sự tham gia của đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học để triển khai quyết liệt, đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã được đề ra.
Khi đó, tôi tin rằng diện mạo của nền khoa học - công nghệ nước ta sẽ có những thay đổi căn bản, năng lực và trình độ nghiên cứu khoa học sẽ có bứt phá mạnh mẽ. Số lượng người làm nghiên cứu sẽ tăng mạnh, một phần quan trọng nhờ gia tăng số lượng học viên sau đại học và số giảng viên tham gia nghiên cứu trong các trường đại học.

Ảnh: nguồn Đại học Phenikaa
Nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài STEM có thể từng bước trở thành lợi thế cạnh tranh của quốc gia, thu hút nhiều tập đoàn công nghệ lớn của nước ngoài vào đầu tư và đặt các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) tại một số thành phố lớn nơi có các đại học mạnh về kỹ thuật và công nghệ. Khi đó, các doanh nghiệp trong nước cũng sẽ tăng mạnh nguồn lực đầu tư cho R&D, đặc biệt thông qua hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu.
Không chỉ số lượng và chất lượng các công bố khoa học của Việt Nam sẽ tăng nhanh và được xếp vào nhóm đầu khu vực châu Á, mà kỳ vọng sẽ hình thành một số trung tâm đổi mới sáng tạo, khu công nghệ cao tầm cỡ khu vực, một số công nghệ chiến lược và một số doanh nghiệp công nghệ lớn trong nước đủ năng lực cạnh tranh quốc tế.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng.