Nghị quyết 68 đẩy mạnh kết nối khu vực tư nhân và doanh nghiệp FDI

Tổng vốn đầu tư nước ngoài FDI đăng ký vào Việt Nam là đang điểm sáng trong bức tranh kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hóa trong doanh nghiệp FDI không cao. Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân đã đặt dấu ấn mạnh mẽ cho nhiệm vụ tăng cường hợp tác cùng phát triển với các doanh nghiệp FDI.

Những năm gần đây, tổng vốn đầu tư nước ngoài FDI đăng ký vào Việt Nam là điểm sáng trong bức tranh kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hóa trong các doanh nghiệp FDI không cao. Điều này cũng đồng nghĩa với việc chúng ta chưa xây dựng được chuỗi cung ứng nội địa bền vững...

Theo số liệu của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), trong 8 tháng năm 2025, tổng vốn đầu tư FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 26,14 tỷ USD, tăng 27,3% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam trong tám tháng năm 2025 đạt 15,4 tỷ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất của 8 tháng trong 5 năm qua.

Việt Nam tiếp tục là điểm đến đầu tư an toàn của nhiều quốc gia trên thế giới

Việt Nam tiếp tục là điểm đến đầu tư an toàn của nhiều quốc gia trên thế giới

Nhiều chuyên gia cho rằng, con số này là minh chứng, khẳng định Việt Nam tiếp tục là điểm đến đầu tư an toàn của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhưng điều này cũng đặt ra câu hỏi, các doanh nghiệp Việt “đang ở vị trí nào” trong quá trình liên doanh, liên kết với doanh nghiệp FDI?

Doanh nghiệp Việt đang ở vị trí nào?

Công ty Trách nhiệm hữu hạn KEYSTONE ELECTRICAL Việt Nam là một doanh nghiệp FDI của Đài Loan (Trung Quốc), đầu tư vào Khu Công nghiệp Liên Hà Thái, tỉnh Thái Bình (cũ), nay là tỉnh Hưng Yên, từ 10/2023. Ngành nghề sản xuất, kinh doanh là dụng cụ điện cầm tay.

Chia sẻ về việc liên kết giữa công ty và doanh nghiệp nội địa, ông Lưu Vũ Hoành, Tổng Giám đốc Công ty cho biết, hiện tại, một số vật liệu sử dụng trong sản xuất, chẳng hạn như thùng carton dùng cho đóng gói, được mua từ các doanh nghiệp Việt Nam. Mức độ hợp tác với các doanh nghiệp bản địa còn rất ít, nguyên nhân chính là do phần lớn các linh kiện không thể mua được tại thị trường nội địa Việt Nam, một phần khác là do giá sản phẩm trong nước cao hơn so với sản phẩm mà công ty nhập khẩu từ nước ngoài.

Một ví dụ khác, Công ty TNHH Nichias Hải Phòng là doanh nghiệp FDI của Nhật Bản, đầu tư vào Việt Nam từ năm 2001, chuyên sản xuất các sản phẩm lọc khí; sản phẩm và phụ kiện từ nhựa (PTFE, ETFE); tấm gioăng đệm từ khoáng chất phi kim loại.

Ông Kengo Iwahara, Tổng Giám đốc Công ty chia sẻ: “Chúng tôi đã nội địa hóa nhiều khâu sản xuất, tỷ lệ này đang là 36%, các nguyên vật liệu chính trước đây phải nhập khẩu đã được thay thế bằng vật liệu từ các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để trở thành đối tác trong chuỗi cung ứng của chúng tôi, doanh nghiệp Việt cần đáp ứng các điều kiện về sản phẩm chất lượng cao, ổn định. Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu kỹ thuật và an toàn. Giá cả phải cạnh tranh nhất, khả năng giao hàng đúng hạn, hệ thống quản lý rõ ràng và minh bạch”.

Tỷ lệ nội địa hóa ở nhiều ngành còn thấp. Ảnh(KT)

Tỷ lệ nội địa hóa ở nhiều ngành còn thấp. Ảnh(KT)

Theo TS Lương Minh Huân, Viện trưởng Viện phát triển doanh nghiệp của VCCI, hiện tỷ lệ nội địa hóa ở nhiều ngành kinh tế của Việt Nam vẫn còn thấp. Thí dụ lĩnh vực điện tử, có giá trị xuất khẩu cao nhưng tỷ lệ nội địa hóa chỉ ở mức khoảng 15%, thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đã đề ra là 45% trong năm 2020.

“Một thực tế nữa cũng rất đáng lưu ý, phần lớn con số “nội địa hóa” mà chúng ta báo cáo hiện nay chưa phản ánh đúng nội lực doanh nghiệp Việt. Rất nhiều trong số đó đến từ các doanh nghiệp FDI đặt nhà máy tại Việt Nam, tức là có sự gia công trong nước, nhưng không phải do doanh nghiệp Việt làm chủ và đây không phải là nội địa hóa thực sự”, ông Huân nhấn mạnh.

Các chuyên gia nhận định, nguyên nhân khiến tỷ lệ nội địa hóa thấp là do phần lớn các doanh nghiệp trong nước còn yếu về công nghệ, tài chính và cả năng lực tổ chức sản xuất. Đặc biệt, khối doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu hạ tầng, thiếu nguồn lực đầu tư dài hạn. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI thường hoạt động trong những ngành công nghệ tiên tiến, do đó yêu cầu về linh kiện và gia công mà họ đặt ra thường vượt ngoài khả năng cung ứng hiện có của các doanh nghiệp trong nước, hoặc họ hoạt động độc lập và ít liên kết với các doanh nghiệp trong nước về cung ứng nguyên, vật liệu, linh kiện hay dịch vụ hỗ trợ.

Ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam còn yếu và chưa phát triển, dẫn đến sự phụ thuộc lớn vào nguồn cung nguyên vật liệu và linh kiện nhập khẩu. Các chính sách hỗ trợ của nhà nước nhằm thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp đa quốc gia và doanh nghiệp trong nước, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển công nghiệp hỗ trợ còn chưa đủ mạnh và hiệu quả.

Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chuỗi cung ứng nội địa

Nghị quyết 68 –NQ/TW ban hành ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã đề ra nhiệm vụ tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI. Nhà nước hỗ trợ các dịch vụ tư vấn, xúc tiến thương mại để kết nối doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa. Áp dụng tỷ lệ nội địa hóa phù hợp theo lộ trình; các dự án FDI lớn phải có kế hoạch sử dụng chuỗi cung ứng nội địa ngay từ giai đoạn phê duyệt dự án....

Theo TS Lương Minh Huân, Viện trưởng Viện phát triển doanh nghiệp của VCCI, để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, điều quan trọng là phải xây dựng được chuỗi cung ứng nội địa bền vững. Việc này không chỉ giúp nền kinh tế giảm sự phụ thuộc, mà còn mở ra cơ hội cho doanh nghiệp Việt từng bước làm chủ công nghệ, thị trường và tăng giá trị gia tăng.

Xây dựng chuỗi cung ứng nội địa bền vững, mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp

Xây dựng chuỗi cung ứng nội địa bền vững, mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp

Để xây dựng chuỗi cung ứng nội địa vững chắc, Nhà nước cần ưu tiên dành nguồn lực đầu tư và phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, để tự chủ trong quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nguyên, vật liệu, các linh kiện, phụ kiện phải nhập khẩu. Tăng khả năng tiếp cận vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp nội địa một cách thực chất và hiệu quả. Đào tạo nhân lực chất lượng cao. Chú trọng nguồn lực đầu tư về công nghệ, đổi mới công nghệ đáp ứng nhu cầu tham gia sản xuất kinh doanh.

Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp lớn cần hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc nâng cao năng lực sản xuất, đào tạo nguồn nhân lực, cải tiến công nghệ. Tập trung xây dựng và phát triển thương hiệu của mình, từ đó tạo ra sự khác biệt và gia tăng giá trị cho sản phẩm, thay vì chỉ chủ yếu gia công sản phẩm cho các thương hiệu lớn, không thể tận dụng tối đa giá trị gia tăng từ sản phẩm. Chú trọng chất lượng sản phẩm từ khâu thiết kế đến sản xuất, bởi chất lượng sản phẩm luôn luôn là yếu tố quyết định sự sống còn của thương hiệu doanh nghiệp.

Lê Thanh-CTV Phượng Ngọc/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/kinh-te/nghi-quyet-68-day-manh-ket-noi-khu-vuc-tu-nhan-va-doanh-nghiep-fdi-post1230337.vov