Nghị quyết giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, HĐND có giá trị pháp lý bắt buộc thực hiện
Với 446 đại biểu (ĐB) Quốc hội biểu quyết tán thành, chiếm 94,29% tổng số ĐB, Quốc hội đã thông qua Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND (sửa đổi), sáng 10-12.
Trình bày báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) về tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật trước khi Quốc hội biểu quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát Dương Thanh Bình cho biết, hướng đến mục tiêu tăng cường thẩm quyền, nâng cao tính kỷ luật, hiệu quả và hiện đại hóa hoạt động giám sát, luật đã mở rộng phạm vi giám sát tối cao của Quốc hội.

Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát Dương Thanh Bình trình bày báo cáo của UBTVQH về tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật. Ảnh: QUANG PHÚC
Theo đó, Quốc hội thực hiện giám sát tối cao đối với hoạt động của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước và đặc biệt bổ sung Hội đồng Bầu cử quốc gia và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập. Trường hợp cần thiết, Quốc hội còn tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Trong khi đó, UBTVQH được bổ sung thẩm quyền giám sát hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH.
Đáng lưu ý, UBTVQH có thẩm quyền bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nghị quyết của HĐND cấp tỉnh trái với Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên. Đặc biệt, UBTVQH có quyền giải tán HĐND cấp tỉnh trong trường hợp HĐND đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân.
Giá trị pháp lý của kết quả giám sát được làm rõ trong luật, cụ thể: nghị quyết giám sát của Quốc hội, UBTVQH, HĐND có giá trị pháp lý bắt buộc thực hiện. Kết luận, kiến nghị giám sát của các chủ thể khác cũng phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát thực hiện nghiêm chỉnh.
Các chủ thể giám sát (Quốc hội, UBTVQH, HĐND, đoàn ĐB Quốc hội...) có trách nhiệm thường xuyên theo dõi, đôn đốc, xem xét việc thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát. Nếu cơ quan chịu sự giám sát không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, chủ thể giám sát có quyền yêu cầu báo cáo giải trình trong thời hạn 15 ngày (tối đa 30 ngày) và quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý.
Cá nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức chịu sự giám sát có trách nhiệm trực tiếp báo cáo, giải trình, trả lời những vấn đề mà chủ thể giám sát yêu cầu. Đặc biệt, đối với hoạt động chất vấn, người bị chất vấn không được ủy quyền cho người khác trả lời thay, trừ trường hợp luật khác có quy định khác.
Các chủ thể giám sát có quyền yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người vi phạm; đồng thời, có quyền yêu cầu, kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát có hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật hoặc không thực hiện yêu cầu, nghị quyết, kết luận, kiến nghị của chủ thể giám sát.

Quốc hội thông qua luật với tỷ lệ tán thành cao. Ảnh: QUANG PHÚC
Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát có quyền giải trình, bảo vệ tính đúng đắn trong việc thực hiện chính sách, pháp luật; có quyền đề nghị chủ thể giám sát xem xét lại kết luận, kiến nghị giám sát liên quan đến hoạt động của mình.
Nhằm công khai, minh bạch và hiện đại hóa hoạt động giám sát, luật nêu rõ, chương trình, kế hoạch giám sát, báo cáo kết quả giám sát, nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát và báo cáo kết quả thực hiện phải được đăng tải trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của Quốc hội, HĐND hoặc phương tiện thông tin đại chúng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Bên cạnh đó, luật bổ sung quy định về ứng dụng công nghệ và đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động giám sát, nhằm đảm bảo sự liên thông, chia sẻ dữ liệu giám sát giữa các chủ thể giám sát và các cơ quan liên quan (như cơ quan thanh tra, kiểm toán).










