Nghĩ về động lực sáng tạo
Hôm trước người viết có ngồi cà phê cùng ông bạn đang làm nghiên cứu viên của một viện nghiên cứu trong một trường đại học. Ông bạn kể rằng chính sách nghiên cứu ở viện của ông ta đang được điều chỉnh theo hướng giảm mức thưởng khá nhiều.
Người viết đùa rằng thế thì các tạp chí khoa học sẽ mất đi kha khá các bài nghiên cứu nghiêm túc rồi. Ông bạn thản nhiên bảo rằng mất đi thế nào được, ít hay nhiều tiền gì thì ông vẫn là một nghiên cứu viên cần mẫn, cái “nghiệp” ông mang rồi.

Có tiền thì sáng tạo sẽ tốt hơn?
Cái “nghiệp sáng tạo” mà ông bạn nói đến khiến người viết liên tưởng đến lĩnh vực chuyên môn của bản thân mình. Là một giảng viên về Luật Sở hữu trí tuệ, người viết thường phân tích cho sinh viên nghe về học thuyết động lực sáng tạo vốn dĩ là cơ sở lý luận cho pháp luật sở hữu trí tuệ của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước thuộc hệ thống Thông luật (hệ thống pháp luật Anh - Mỹ).
Học thuyết này giải thích rằng sở dĩ các tài sản trí tuệ cần được bảo hộ độc quyền cho tác giả là bởi vì độc quyền tạo ra động lực sáng tạo cho xã hội. Nói cách khác, các nhà hoạch định chính sách giả định rằng nếu như không trao các độc quyền cho những người sáng tạo thì họ sẽ không còn động lực để duy trì hoạt động này và vì thế sẽ không thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Điều đáng chú ý ở đây là những lợi ích mà các khung pháp lý về sở hữu trí tuệ hướng tới chủ yếu là những lợi ích về kinh tế.
Tiền bạc nên đóng vai trò là công cụ, tạo điều kiện cho hoạt động sáng tạo nhưng không nên là mục tiêu của hoạt động đó. Bởi lẽ, một khi công cụ trở thành mục tiêu của một hành vi, hành vi ấy tất yếu sẽ bị xuyên tạc. Giá trị của kết quả nghiên cứu nên là mục tiêu quan trọng nhất của hoạt động nghiên cứu.
Người ta dễ gật gù với học thuyết động lực sáng tạo bởi vì trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, khi các hoạt động sản xuất, bao gồm sản xuất ra tài sản trí tuệ, chủ yếu được tổ chức theo quy mô công nghiệp, nghĩa là diễn ra trong các phân xưởng, nhà máy, phòng thí nghiệm của các doanh nghiệp, và người chủ chính là các nhà tư bản. Các hoạt động sản xuất cá nhân nhỏ lẻ không còn phổ biến.
Rõ ràng là, không một doanh nghiệp hay một tập đoàn nào chịu đầu tư mà không nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Một công ty dược không bao giờ chịu chi cả vài triệu đô la, thậm chí nhiều hơn, để nghiên cứu tạo ra một phương thuốc mới ở quốc gia nơi mà không bảo hộ sáng chế độc quyền. Do đó, hiển nhiên các nhà tư bản, các doanh nghiệp chắc chắn cần động lực kinh tế để sáng tạo.
Nhưng bản thân các cá nhân sáng tạo chân chính thì không thế. Như ông bạn nghiên cứu viên của người viết.
Sáng tạo không đơn giản là một công việc chỉ để kiếm tiền. Hoạt động sáng tạo tạo ra những giá trị tinh thần cho chính bản thân người sáng tạo mà không thể quy ra được thành tiền bạc. Đó là nhu cầu tự thân của nhà sáng tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Chẳng hạn nhu cầu thỏa mãn đam mê sáng tạo cá nhân, nhu cầu nhận được sự công nhận xứng đáng của xã hội dành cho tác giả, hoặc đơn giản là người sáng tạo sẽ cảm thấy bản thân có ý nghĩa hơn khi kết quả lao động trí óc của mình đóng góp lợi ích cho cộng đồng. Điều đó giải thích cho hiện tượng nhiều nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, nhà khoa học lỗi lạc, dù không làm giàu được từ nghề nghiệp của mình nhưng họ vẫn không ngừng sáng tạo.
Khi Albert Einstein gò người bao ngày đêm để nghiên cứu thuyết tương đối, lúc ấy ông chỉ là nhân viên của Cục cấp bằng sáng chế ở Thụy Sỹ, nghiên cứu vốn dĩ không thuộc phạm vi công việc ông được trả tiền. Khi ông gửi bản thảo những bài báo đột phá đầu tiên của ông cho tạp chí vật lý Đức Annalen der Physik, ông cũng không nhận được một đồng tiền thưởng nào cho công trình nghiên cứu đó. Vậy động cơ của Einstein khi đó là gì?
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng sáng tạo nằm trong bản chất của con người. Nhu cầu sinh tồn và phát triển nhất thiết đòi hỏi loài người không ngừng sáng tạo, cho dù có hay không có các động lực kinh tế, có hay không có pháp luật sở hữu trí tuệ.
Nguồn gốc sâu xa của sáng tạo chính là sự phản ứng bản năng của loài người trước nhu cầu cuộc sống. Từ khởi thủy, nhu cầu sinh tồn, thoát ra khỏi điều kiện sống khắc nghiệt, chinh phục thiên nhiên và vươn lên làm chủ chuỗi thức ăn buộc con người không ngừng sáng tạo. Luật Sở hữu trí tuệ mới tồn tại vài thế kỷ trở lại đây nhưng nhân loại đã biết sáng tạo từ khi mới xuất hiện trên Trái đất. Thuyết động lực sáng tạo liệu có giải thích được tại sao trước kia tổ tiên ta lại không ngừng sáng tạo dù không có khái niệm về cái gọi là tài sản trí tuệ? Tại sao người Trung Quốc cổ đại lại phát minh ra thuốc súng, kỹ thuật in ấn dù không được bảo hộ sáng chế? Tại sao Homer lại sáng tác Odyssey dù không có bản quyền? Trong đa phần lịch sử, nhân loại sống, học tập và làm việc mà không có pháp luật sở hữu trí tuệ tạo động lực sáng tạo. Liệu có ai dám chắc rằng chúng ta ngày nay lao động sáng tạo nhiều hơn và hiệu quả hơn cha ông của chúng ta ngày trước?
Mặt trái của chính sách trả thưởng cao cho công bố khoa học: Khi công cụ trở thành mục tiêu
Có lẽ chính sách trả thưởng cho nghiên cứu khoa học là điển hình cho việc áp dụng học thuyết động lực sáng tạo. Ngày nay, chính sách trao thưởng “khủng” cho các công trình khoa học được công bố đã quá quen thuộc với các nhà khoa học Việt Nam.
Mặc dù chưa tìm được thống kê tổng quát về số lượng các bài báo của các nhà khoa học Việt Nam chênh lệch cụ thể như thế nào tại thời điểm trước và sau khi có chính sách trả thưởng cho công bố khoa học, người viết mạnh dạn suy đoán rằng con số tăng lên rất nhiều qua thời gian dựa vào các thông tin về công bố khoa học hàng năm của các trường, viện nghiên cứu trong cả nước. Có lẽ đây sẽ là một yếu tố củng cố thêm niềm tin rằng “tiền thúc đẩy sáng tạo”.
Đáng buồn thay, số lượng không là yếu tố đảm bảo cho chất lượng. Chính sách trả thưởng cho hoạt động sáng tạo dễ bị xuyên tạc dẫn đến hiện tượng thiếu liêm chính trong nghiên cứu khoa học mà dư luận gần đây không ngừng bàn tán. Một số không ít các nhà khoa học chạy theo các khoản thưởng kếch xù để “bán mình” cho các công xưởng sản xuất bài báo nghiên cứu, các tạp chí săn mồi để công bố những kết quả giả khoa học, kém chất lượng.
Tất nhiên không ai có thể sống mà không có tiền. Không ai chuyên tâm sáng tạo khi gia đình thiếu trước hụt sau. Điều kiện kinh tế ổn định sẽ khiến nhà khoa học an tâm thực hiện các hoạt động nghiên cứu. Nghĩa là tiền bạc nên đóng vai trò là công cụ, tạo điều kiện cho hoạt động sáng tạo, tuy nhiên nó không nên là mục tiêu của hoạt động đó.
Bởi lẽ, một khi công cụ trở thành mục tiêu của một hành vi, hành vi ấy tất yếu sẽ bị xuyên tạc. Sáng tạo cũng không ngoại lệ. Giá trị của kết quả nghiên cứu nên là mục tiêu quan trọng nhất của hoạt động nghiên cứu. Bỏ qua mục tiêu này mà bám lấy bất cứ một mục tiêu nào khác, đặc biệt là vì lợi ích kinh tế, sẽ tạo ra nguy cơ lệch lạc trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
Thay lời kết
Ở bình diện chính sách quốc gia, lợi ích kinh tế nên được đảm bảo cho các nhà sáng tạo nói chung chuyên tâm thực hiện các hoạt động trí tuệ, không nên sử dụng chúng như mục tiêu của lao động trí óc. Bên cạnh đó, các chính sách như chính sách trao thưởng cho hoạt động nghiên cứu về lý thuyết là tích cực.
Còn gì tốt đẹp hơn khi một hoạt động mang lại lợi ích cho xã hội được trao những phần thưởng xứng đáng. Tuy nhiên các phần thưởng này chỉ nên đóng vai trò là sự ghi nhận của xã hội cho những cống hiến của các nhà sáng tạo hơn là mục tiêu của hoạt động sáng tạo. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng sáng tạo nằm trong bản chất của con người.
Nhu cầu sinh tồn và phát triển nhất thiết đòi hỏi loài người không ngừng sáng tạo, cho dù có hay không có các động lực kinh tế, có hay không có pháp luật sở hữu trí tuệ. Đừng để đồng tiền làm tha hóa bản chất của hoạt động sáng tạo - hoạt động khiến cho loài homo sapiens khác biệt với các loài động vật khác.
(*) Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM.
Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/nghi-ve-dong-luc-sang-tao/