Ngô Nhân Tịnh: Từ danh sĩ Nam Bộ đến công thần triều Nguyễn và nỗi oan thế sự
Không chỉ là một danh sĩ nổi tiếng đất Gia Định, Ngô Nhân Tịnh còn là bậc công thần khai mở triều Nguyễn.

Ngô Nhân Tịnh là học trò của Xử sĩ Võ Trường Toản. Ảnh minh họa: ITN
Thế nhưng thật trớ trêu, ông lại bị bỏ rơi với nỗi oan sầu uẩn không thể giãi bày.
Theo các nguồn sử liệu triều Nguyễn, Ngô Nhân Tịnh (1761 - 1813), tự là Nhữ Sơn, hiệu là Thập Anh, nguyên tổ phụ là người Minh Hương - Quảng Đông (Trung Quốc). Sau khi nhà Minh bị nhà Thanh đánh bại, tổ tiên ông di cư theo đường biển sang Gia Định lánh nạn và lập nghiệp.
Danh sĩ xuất sơn, ba lần đi sứ
Lúc thiếu thời, Ngô Nhân Tịnh theo học với thầy dạy là Võ Trường Toản ở làng Hòa Hưng (Gia Định). Ông sớm bộc lộ trí tuệ xuất chúng, ham học hỏi, thông thạo các kinh điển Nho giáo, am tường văn chương, lịch sử, đồng thời kết hợp kiến thức với thực tiễn. Thời kỳ ông sinh sống cũng là giai đoạn xảy ra nhiều biến động, đặc biệt là sự nổi dậy của anh em Tây Sơn.
Năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm lại Gia Định, cần người tài ra giúp sức, Ngô Nhân Tịnh lúc ấy 17 tuổi đã cùng với hai người bạn đồng môn cùng học thầy Võ Trường Toản là Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định ra ứng cử, nhờ có tài năng nên cả 3 người đều được Nguyễn Phúc Ánh trọng dụng.
Trong những năm đầu, Ngô Nhân Tịnh được lãnh chức Thị độc Viện Hàn lâm, đến năm Mậu Ngọ (1798), ông được thăng lên chức Binh bộ Hữu tham tri. Trong năm này, Lưu trấn Diên Khánh Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường dâng sớ xin cho người đi sứ Trung Quốc một mặt nói rõ tình hình của Tây Sơn, một mặt ngầm dò tìm tin tức vua Lê.
Do uy tín, học vấn và đức độ, Ngô Nhân Tịnh được triều đình cử đi sứ nhà Thanh - một nhiệm vụ quan trọng, vừa mang tính ngoại giao vừa mang tính văn hóa, thể hiện tầm vóc và tri thức của một bậc danh nho. Chuyến đi sứ này không chỉ đòi hỏi kiến thức, mà còn cần khí tiết, khả năng đối đáp linh hoạt, và sự nhạy bén trong xử lý các tình huống nhạy cảm.
Sử liệu triều Nguyễn cho biết, mục đích chính của chuyến đi sứ này là dò xét tình hình vua Lê Chiêu Thống. Tuy nhiên, khi đi thuyền đến Quảng Đông thì mới hay tin vua Lê Chiêu Thống đã chết từ năm 1793. Biết được tin chính xác, Ngô Nhân Tịnh không đến Bắc Kinh để gặp vua Càn Long mà lập tức trở về Gia Định thông báo cho Nguyễn Phúc Ánh biết.

Tượng Thượng thư Ngô Nhân Tịnh tại Vườn tượng danh nhân tại Biên Hòa (Đồng Nai).
Năm Canh Thân (1800), Ngô Nhân Tịnh theo Nguyễn Phúc Ánh ra cứu thành Quy Nhơn, ông cùng với Nguyễn Kỳ Kế coi việc binh lương. Sau đó, Ngô Nhân Tịnh được lãnh coi việc chính trị ở Phú Yên, thu tiền và lúa gạo để cung cấp cho quân đội.
Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long, Ngô Nhân Tịnh được cử làm Giáp Phó sứ, cùng với Chánh sứ Trịnh Hoài Đức, và Phó sứ là Hoàng Ngọc Uẩn đi sứ nhà Thanh lần 2 để trình quốc thư và nộp trả ấn sách mà nhà Thanh đã phong cho nhà Tây Sơn. Đồng thời, áp giải các toán cướp biển Tề Ngôi là Mạc Quang Phù, Lương Văn Canh, Phàn Văn Tài từng hợp tác với Tây Sơn giao lại cho nhà Thanh định đoạt.
Năm Quý Hợi (1803), sứ đoàn tới Bắc Kinh vào chầu vua Thanh. Trong thời gian ở Bắc Kinh, tiếp các quan đại thần nhà Thanh, Ngô Nhân Tịnh đã thể hiện sự thông minh và tài trí khôn khéo. Ngoài tài ứng đối, bình tĩnh đấu kế để giữ gìn quốc thể, ông còn dùng thơ văn thuyết phục vua quan nhà Thanh, để họ phải thực hiện những điều đã cam kết.
Sau khi hoàn thành sứ mệnh, Ngô Nhân Tịnh trở về đảm nhiệm chức vụ cũ. Đến năm Đinh Mão (1807), ông lại được sung chức Chánh sứ, cùng với Phó sứ Trần Công Đàn đem ấn sắc vào Nam, sang Chân Lạp (Campuchia), đến thành La Bích phong Nặc Chăn (Ang Chan II) làm quốc vương.

Ngô Nhân Tịnh để lại nhiều tác phẩm giá trị.
Nỗi oan không thể giãi bày
Năm Tân Mùi (1811), Ngô Nhân Tịnh được bổ chức Hiệp trấn Nghệ An. Khi ấy, thi hào Nguyễn Du đang làm Cai bạ Quảng Bình. Trên đường ra Nghệ An, Ngô Nhân Tịnh ghé thăm Nguyễn Du. Nguyễn Du cảm kích, khi chia tay có thơ tặng Ngô Nhân Tịnh, đó là bài “Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất Nghệ An”:
“Cẩm La giang thượng khấu chinh an/ Bái hội phi nan, tích biệt nan/ Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc/ Nhất xa cao vũ nhuận toàn Hoan/ Nhân tòng đạm bạc tư vi chính/ Thiên vị kiểm lê bất phóng nhàn/ Bắc vọng Hồng Sơn khai đức diệu/ Thiên nhai cử tửu khánh hương quan”.
(Bến Cẩm dừng cương bước ngựa khoan,/ Sum vầy chẳng khó, biệt ly buồn./ Văn hay đáng bậc, lừng hai nước,/ Mưa ngọt đầy xe dội xứ Hoan./ Dễ tính việc càng mong được giảm,/ Vì dân trời chửa để cho nhàn./ Xa nhìn Hồng Lĩnh ngôi sao đức,/ Nâng chén mừng quê cách dặm ngàn) - bản dịch trong sách “Nguyễn Du - tác phẩm và lịch sử văn bản”.
Thời gian làm quan tại Nghệ An, Ngô Nhân Tịnh nổi tiếng là người thanh liêm, mẫu mực, không dung túng kẻ tham lam, hết lòng lo cho dân. Khi chứng kiến đời sống khổ cực của dân chúng sở tại, ông liền dâng sớ về triều xin vua Gia Long giảm - hoãn nộp thuế, được vua phê chuẩn.
Năm Nhâm Thân (1812), Ngô Nhân Tịnh được thăng chức Thượng thư Công bộ kiêm Hiệp hành Tổng trấn Gia Định và phong chức Tinh Viễn hầu. Năm sau, Ngô Nhân Tịnh cùng với Tổng trấn Lê Văn Duyệt đem hơn 13.000 quân binh hộ tống vua Chân Lạp là Nặc Chăn về nước. Cùng năm này, sau khi đi hội đàm cùng Xiêm La (Thái Lan) bàn việc Chân Lạp, ông bị vu tội tham ô, ăn của đút lót của Chân Lạp và Xiêm La.

Trong đời làm quan, Ngô Nhân Tịnh có 2 lần đi sứ Trung Quốc, một lần đi sứ Chân Lạp. Ảnh minh họa: ITN
Tổng trấn Lê Văn Duyệt tin là thật bèn đem việc ấy tâu lên, vua Gia Long vẫn biết Ngô Nhân Tịnh là người liêm chính, không điều tra sự việc mà còn phong cho ông làm Kim tử vinh lộc đại phu, Thượng khanh tước Tịnh viễn hầu. Tuy cho là tấu hạch tội không có thật, nhưng từ đó vua Gia Long cũng không tin dùng Ngô Nhân Tịnh.
Về chuyện này, sách “Đại Nam thực lục chính biên”, đệ nhất kỷ, quyển 97 chép: Hiệp tổng trấn Gia Định là Ngô Nhân Tịnh chết. Nhân Tịnh trước sang Chân Lạp, có người nói Tịnh nhận riêng của nước Phiên. Văn Duyệt đem việc tâu, vua nói: “Việc không có chứng cứ, hãy để đó”. Nhân Tịnh nghĩ không yên lòng, thường tự than rằng: “Vẽ rắn thêm chân ai khiến ta mang cái oan không bày tỏ được”.
Không được vua tin dùng, lại vì lời gièm pha thâm hiểm mà từ đó Ngô Nhân Tịnh sầu não đến sinh bệnh, cũng không thể nào giãi bày được sự trong sạch của mình. Đến cuối năm Quý Dậu (1813), bệnh ông thêm nặng và mất tại xã Chí Hòa (Gia Định).
Sau khi mất, ông được đặt tên thụy là Túc Gian, và được an táng tại làng Chí Hòa, tổng Dương Hòa thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, thành Gia Định. Theo sách “Từ điển văn học”, lúc bấy giờ bạn đồng môn của ông là Trịnh Hoài Đức có tâu vua xin được truy tặng cho ông, nhưng vua Gia Long không cho. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), triều đình mới cấp phu trông coi mộ Ngô Nhân Tịnh và đến năm Tự Đức thứ 5 (1852), ông mới được thờ vào miếu Trung hưng công thần.

Lăng mộ Ngô Nhân Tịnh tại chùa Giác Lâm (TP Hồ Chí Minh).
Một trong 3 danh sĩ bậc nhất Gia Định
Không chỉ là một người học giỏi nổi tiếng, cũng như là một vị quan thanh liêm, chính trực, có nhiều công lao đối với triều Nguyễn, Ngô Nhân Tịnh còn là một danh sĩ, một tác gia danh tiếng nhất nhì Nam Bộ. Sinh thời, ông là một trong 3 nhân vật trong nhóm “Gia Định tam gia” - danh hiệu người đời tặng cho ba vị quan văn của Nguyễn Phúc Ánh là: Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh và Trịnh Hoài Đức.
Sau này, nhà văn hóa Vương Hồng Sển đã nhận xét rằng: “Trong nhóm người Minh Hương, có ba ông: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh và Lê Quang Định đều là những bực công thần có công xây dựng cõi Nam, đua nhau nâng cao nền văn hiến Việt và tận tâm giúp chúa Nguyễn thâu lại cơ nghiệp tổ tiên thống nhất giang san. Hà Tiên có Chiêu Anh Các, Gia Định có Thi hữu tam gia không kém”.
Ngô Nhân Tịnh là người học rộng, giỏi văn chương, thích ngâm vịnh. Sự nghiệp văn thơ mà ông để lại gồm các tập thơ: “Thập Anh đường thi tập” (in khắc năm Tân Mùi - 1811), gồm 81 bài thơ chữ Hán, chủ yếu làm trong hai dịp đi sứ sang Trung Quốc. “Thập Anh văn tập”, gồm 187 bài kinh nghĩa, lấy đề tài trong “Kinh Thi”, “Kinh Thư”, dùng làm mẫu cho những người đi thi tham khảo.
Ngô Nhân Tịnh còn soạn chung với Bùi Dương Lịch tác phẩm “Hoan Châu phong thổ ký” khi đang lãnh chức Hiệp trấn Nghệ An. Nội dung của sách viết về phong tục, tập quán, nhân vật 12 huyện của trấn Nghệ An. Tiếp đến là viết về danh lam thắng cảnh núi sông, cổ tích, đền miếu xứ Nghệ.
Ngoài ra, ông còn là người nhuận chính sách “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí” của Lê Quang Định. Ông còn có một số bài thơ in chung với thơ của Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định trong “Gia Định tam gia thi tập”…
Theo giới nghiên cứu, thơ đi sứ của Ngô Nhân Tịnh đau đáu nỗi niềm thương nhớ đất nước: “Tha hương làm khách mãi/ Chiết liễu điệu xui lòng/ Sầu như sông chín khúc/ Quanh thành sông lượn vòng”. Tuy nhiên khi về nước, ông ngỡ ngàng nhận ra mình cũng chỉ là một vị khách xa lạ trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình: “Chín khúc ruột dần tựa khúc giang/ Trời Nam xa cách mấy quan san/ Hận người khinh bạc, hoa trôi chảy/ Thương khách thanh hàn, nguyệt ghé sang”.
Đặc biệt ở giai đoạn cuối đời, ông phải sống trong sự nghi ngờ của vua và một số người trong hàng ngũ quan chức triều Nguyễn. Là một vị công thần bị bỏ rơi, Ngô Nhân Tịnh chỉ còn biết ẩn mình gửi gắm nỗi niềm vào rượu và “Ly tao” (Thuyết tình ái): “Thị phi nào biết tỏ cùng ai/ Hoàng bách bao năm đắng lưỡi này/ Kể hết bình sinh ta thích thú/ Bao giờ nhàn rỗi tấm thân đây?”.
Thơ của Ngô Nhân Tịnh xót xa, u uẩn nhưng không chất chứa oán hờn, khinh bạc. Với lời lẽ trung hậu, thấy trải lẽ xuất xử của kẻ sĩ ở đời. Những vần thơ nhiều trăn trở ấy đã tạo nên sức rung động rất lớn. Trên quan trường, Ngô Nhân Tịnh không quyền biến như Trịnh Hoài Đức, vì ông thường nói trong thơ của mình - rằng ông “thích nhân hơn thích trí” đúng như chữ “Nhân” trong tên đệm của ông.
Năm Bính Tý (1936), Hội Đình Minh Hương Gia Thạnh đã di dời mộ phần của Ngô Nhân Tịnh về làng Tân Hóa, tổng Tân Phong Trung, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định. Năm 2004 để tôn vinh một nhà thơ lớn của đất Gia Định xưa, UBND TP Hồ Chí Minh đã di dời và an trí mộ phần Thượng thư Ngô Nhân Tịnh trong khuôn viên chùa Giác Lâm. Đến nay, mộ phần ông vẫn còn bảo lưu tấm bia đá nguyên gốc lập vào năm 1813 khi ông qua đời. Nội dung bia mộ ghi: Mộ của người họ Ngô, giữ chức Khâm sai, Công bộ Thượng thư, Hiệp tổng trấn thành Gia Định, thụy là Túc Gian, ban tước Tịnh Viễn hầu.