Người giữ lửa ở Bắc Cực
Hơn 30 năm trước, một chàng trai trẻ bỏ dở giấc mơ du học nơi 'xứ tuyết' trở về Việt Nam trong nỗi buồn tủi xen lẫn đắng cay. Nhưng rồi anh đã trở lại nước Nga, không phải chỉ một lần mà hàng chục, hàng trăm lần.
Bằng ý chí, khát vọng, trí tuệ và lòng dũng cảm - anh từng bước vượt qua những thử thách khắc nghiệt, xây dựng sự nghiệp đáng tự hào trong ngành dầu khí, góp phần mang hàng tỷ USD về cho Tổ quốc.
Anh là Nguyễn Trí Dũng - Phó Tổng Giám đốc thứ nhất Liên doanh Rusvietpetro, đồng thời cũng là người giữ lửa không lùi bước trong hành trình tìm dầu nơi đất khách.
Duyên phận với ngành
Có lẽ không nhiều người để ý đến cậu thanh niên cao, gầy bước trên đường băng sân bay Nội Bài năm ấy. Do những biến động khốc liệt của thời cuộc (Liên bang Xô viết tan rã) mà Dũng đã phải bỏ dở việc học tập ở nước bạn để quay trở về Việt Nam. Dù thất vọng tràn trề, nhưng vốn là "con nhà nòi" dầu khí - không vì thế mà Dũng bi quan. Cậu tiếp tục ghi danh vào trường Đại học Mỏ - Địa chất, quyết tâm nối nghiệp cha anh.
Tốt nghiệp, Dũng tham gia một số công trình dầu khí, khoan thăm dò tại các mỏ ở khu vực Đồng bằng sông Hồng, đã đạt được một số thành tích nho nhỏ. Quan trọng hơn, cậu thu thập được khối kiến thức đáng kể để có thể ứng dụng rất tốt cho công việc sau này.
Năm 2003, ngọn lửa học tập vẫn còn vẹn nguyên trong huyết quản, Dũng một lần nữa xuất ngoại và làm nghiên cứu sinh tại nước Nga - nơi mà hơn chục năm trước anh luôn luôn mơ ước tiếp nhận được khối kiến thức tiên tiến về dầu khí tại đây. Và kể từ đó "hoa chân" của Dũng bắt đầu "phát lộ". Dũng cứ đi miết từ công trình này đến công trình khác, mà nơi nào cũng thuộc dạng "khoai sắn".
Dự án nước ngoài đầu tiên mà anh tham gia là tại Algieria. Dũng là một trong những kỹ sư người Việt Nam đầu tiên tham gia phát triển mỏ Bir Seba (hiện dự án này vẫn hoạt động rất hiệu quả). Sau đó, cùng với việc triển khai chiến lược đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, nay là Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam), Dũng được cử đi rất nhiều các quốc gia khác nhau trên thế giới để tìm hiểu, đánh giá và đề xuất các cơ hội đầu tư ra nước ngoài cho Petrovietnam.
Với chủ trương người đề xuất đầu tư dự án phải chịu trách nhiệm với đề xuất của mình, Dũng lại được điều sang Uzbekistan, một quốc gia Trung Á để phát triển dự án tại đây. Với sự nhiệt huyết của tuổi trẻ, Dũng mơ ước xây dựng dự án tại Uzbekistan thành một dự án kiểu mẫu trong công tác đầu tư ra nước ngoài của Petrovietnam. Tuy nhiên vận may vẫn chưa đến với Dũng khi dự án bất ngờ phải dừng, cũng do "những biến động khốc liệt của thời cuộc" (giá dầu giai đoạn 2014-2017 có xu hướng giảm mạnh khi mà OPEC thực hiện chiến lược "ngập lụt thị trường dầu").
Đầu năm 2018, sau khi gói ghém "giấc mơ bị bỏ dở", Dũng tạm quay về Việt Nam với tâm tư tự an ủi "không thành công cũng thành nhân". Với những kinh nghiệm thu thập được từ "chiến trường", nhận diện những nguyên nhân thất bại trong công tác đầu tư ra nước ngoài của Petrovietnam - Dũng tiếp tục nung nấu, xây dựng chiến lược tiếp theo cho công tác này. Cơ hội lại đến khi các dự án tại Rusvietpetro (Liên doanh giữa Petrovietnam và Zarubezhneft tại Nga) đang được nhận diện bắt đầu vào giai đoạn khó khăn với dự báo sản lượng và hiệu quả sẽ giảm nhanh. Dũng lại một lần nữa được gửi gắm niềm tin với kỳ vọng sẽ làm thay đổi được tình hình.
Giữa năm 2018, anh Nguyễn Vũ Trường Sơn (nguyên Tổng Giám đốc Tập đoàn) gọi Dũng lên và bảo:
- Dự án Rusvietpetro đang bước vào giai đoạn khó khăn, sản lượng được dự báo sẽ suy giảm rất nhanh. Anh tính cử em sang để thử sức, ô-kê không?
- Cám ơn anh đã tin tưởng! Em xin nhận nhiệm vụ, nhưng với hai điều kiện: (i) được toàn quyền quyết định bên đó, đồng thời phải được (ii) làm dự án mới cho sự phát triển bền vững của Rusvietpetro.
Sau khi nhận được cái gật đầu từ Tổng Giám đốc, Dũng bắt đầu nhận vị trí mới - Phó Tổng Giám đốc thứ nhất, người đại diện của Petrovietnam trong Liên doanh Rusvietpetro. Và dự án tại Nga lần này có thể nói là "bước ngoặt" trong cuộc đời chàng chiến binh này.
Xin được mở ngoặc ở đây một chút, về lịch sử của Liên doanh Rusvietpetro.
Tại Việt Nam, người ta thường nghe đến Liên doanh Vietsovpetro, còn Rusvietpetro thì lại chưa nhiều người biết đến. Có thể hiểu đơn giản, Vietsovpetro là Liên doanh hợp tác dầu khí giữa Việt Nam và Liên Xô, từ những năm 80 của thế kỷ trước, đã và đang hoạt động rất hiệu quả tại thềm lục địa Việt Nam. Còn Rusvietpetro cũng là hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga (Liên Xô cũ), nhưng hoạt động tại khu tự trị Nhenhetsky Cực Bắc của nước bạn.
Theo dòng lịch sử, Rusvietpetro thành lập ngày 27/7/2008, và được Chính phủ Nga cho phép thăm dò, thẩm lượng và khai thác 13 mỏ dầu khí tại 4 lô với diện tích khoảng 807km2 ở vùng cực Bắc của Liên bang Nga.
Kết quả nằm ngoài mọi dự đoán, tháng 9/2010, mỏ Bắc Khosedayu đã cho dòng dầu thương mại đầu tiên. Tháng 7/2011, mỏ Visovoi cũng đi vào khai thác. Đây là một kỷ lục chưa một công ty dầu khí nào tại Liên bang Nga thực hiện được và dự án được coi là dự án có hiệu quả tốt nhất của Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam ở nước ngoài cho tới thời điểm hiện nay, khi mà mới chỉ sau gần 17 năm hoạt động, Liên doanh đã mang lại cho Petrovietnam khoản lợi nhuận trên 2 tỷ USD.
Dù vậy, tại thời điểm năm 2018 theo dự báo: sản lượng khai thác dầu khí của dự án này sẽ bắt đầu suy giảm nhanh từ trên 3 triệu tấn/năm vào năm 2019 xuống còn dưới 2 triệu tấn/năm vào năm 2024. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng cơ bản là việc đầu tư phát triển thêm các giếng khoan mới chưa được quan tâm. Đây là việc khó, thậm chí rất khó. Bởi lĩnh vực thăm dò khai thác luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Đã có không ít bài học nhãn tiền cho thấy, khi mang vốn của Nhà nước đầu tư vào dự án mới - nếu may mắn có lãi, "mang tiền về cho Mẹ" thì không sao. Nhưng nếu bị lỗ (kể cả lý do khách quan như rủi ro địa chất, địa chính trị, giá dầu đột ngột giảm mạnh...) thì rất có thể sẽ bị lên "đoạn đầu đài".
Cũng chính vì thế, cần phải có những người mạnh dạn, dám nghĩ dám làm, không sợ khó, không sợ khổ, không sợ thất bại... Nguyễn Trí Dũng đã được lựa chọn. Và cũng có thể nói - như một duyên lành - dự án đã chọn anh.
"Đâm đầu vào đá - vẫn phải đâm!"
Không khó để cảm được cái chất "doanh nhân" từ Nguyễn Trí Dũng. Từ vẻ bề ngoài của anh đã toát lên "hương vị" Đông Âu, cho đến giọng nói rõ ràng, mạch lạc, dứt khoát và cũng rất thuyết phục. Mỗi lần gặp chúng tôi, anh đều nhấn đi nhấn lại: "Các nhà văn, nhà báo phải sang bên kia (Nga), trực tiếp chứng kiến cán bộ kỹ sư Việt Nam sống và làm việc nơi tuyết trắng thì sẽ có thể cảm nhận được lòng quyết tâm, sự hy sinh..."
Khác với việc thăm dò khai thác ở vùng thềm lục địa Việt Nam, hay giữa sa mạc Sahara bên Phi Châu, thì công việc của những kỹ sư, công nhân tại khu tự trị Nhenhetsky lại có những vấn đề rất riêng, và quả thật là để lấy được một thùng dầu ở đây phải trải qua "thiên nan vạn nan".
Các mỏ dầu của Rusvietpetro nằm cách thủ đô Moscow hơn 3.000km về phía Đông Bắc, giữa một vùng đầm lầy hoang vu. Ngôi làng gần nhất cũng cách hơn... 300km. Vùng này mỗi năm phải chịu 9 tháng mùa đông và lúc lạnh nhất từ tháng 12 đến tháng 4, nhiệt độ luôn "quanh quẩn" ở mức từ 20-50 độ âm. Mùa đông rét tới mức, có khi hơi thở đóng thành băng ngay khi vừa ra khỏi... mũi, còn mùa hè thì muỗi nhiều vô cùng. Muỗi ở đây to gần như con ruồi, vòi dài đến 3mm, và dễ dàng xuyên thủng cả quần bò và chúng lao vào người như ném cát. Khi đi ra ngoài, công nhân phải có mạng che mặt chống muỗi.
Ở đây mùa hè là đầm lầy không có đường vận chuyển, không có cơ sở hạ tầng công nghiệp. Mùa đông tuyết rơi dày cả mét, nước đóng băng. Để vận chuyển các thiết bị siêu trường, siêu trọng vào mỏ, những người thợ Nga - Việt phải "mở đường máu" - ấy là những con đường đặc biệt được làm từ băng tuyết và chất phụ gia... Những con đường trên băng ấy dài hơn 400km băng qua những cánh rừng và chủ yếu là trên đầm lầy. Đó là những con đường có tuổi thọ chỉ tính bằng... tháng. Thông thường, đường được hoàn thành vào giữa tháng 12 và tồn tại tới... giữa tháng 4. Khi những tia nắng mùa hè xuất hiện, thì những con đường này lại biến mất, thay vào đó là đầm lầy, và những bình nguyên cỏ hoang vu. Khi không có đường, việc vận chuyển phải dùng trực thăng dạng "quái vật". Những chiếc trực thăng này có thể cẩu thiết bị nặng đến 26 tấn... Tất nhiên, giá cho việc vận chuyển này là cực đắt.
Ngoài ra, quá trình vận chuyển dầu sau khi khai thác về "kho" cũng đầy khó khăn. Liên doanh phải xây dựng một đường ống dài gần 100km tới điểm giao nhận nội bộ, rồi lại thuê tiếp 170km đường ống nữa tới điểm giao nhận của Trung tâm Vận chuyển Dầu quốc gia Liên bang Nga. Đường ống này được thiết kế đặc biệt bởi nó phải đảm bảo "sưởi ấm" cho dòng dầu, không bị đông lại dưới nhiệt độ âm 500C. Đường ống phải được cách nhiệt, rồi được gia nhiệt cho đủ nóng để làm loãng dầu, và phải có các phụ gia chống đông. Mùa đông năm 2010, cũng đã có lúc đường ống bị tắc do dầu đóng băng. Để xây dựng trạm xử lý dầu khí trung tâm, Liên doanh phải đổ trên 800 ngàn mét khối cát để tôn nền một vùng đầm lầy rộng trên 20 héc ta, lên độ cao gần hai mét. Cát ở đây được lấy từ mỏ cách ba chục cây số.
"Anh em phải sang đây, tận mắt nhìn, cảm nhận thời tiết, con người... thì sẽ cảm nhận được công việc của những người đi tìm dầu như chúng tôi" - Rất nhiều lần Dũng nói như vậy. Và quả thật, chỉ cần xem các video clip các anh ghi lại chúng tôi cũng có thể cảm nhận được phần nào.
Song có một điều trớ trêu là, mặc dù việc khai thác dầu đã thiên nan vạn nan là thế - mà vẫn "chưa là gì" so với việc điều hành, kiểm soát dòng tiền mà mình kiếm được...
Nghe anh tâm sự mà chúng tôi cũng... toát cả mồ hôi.
Ngay sau khi nhận công việc mới, Dũng tổ chức rà soát lại tất cả con người, quy trình, dòng tiền... Từ đó tìm ra từng nút thắt để gỡ. Điều đầu tiên Dũng nhận thấy nguyên nhân sản lượng suy giảm là do chưa chú trọng đến công tác nghiên cứu các biện pháp gia tăng hệ số thu hồi dầu, đặc biệt là khoan các giếng khoan đan dày. Dũng cùng với các kỹ sư giỏi đã tiến hành nghiên cứu và đề xuất việc xây dựng các phương án khoan thêm nhiều giếng mới. Ngoài những kiến thức dày dạn, Dũng còn dùng thêm "trợ lực" ở Việt Nam từ Viện Dầu khí và các ban chuyên môn của Tập đoàn. "Cứ mỗi một công đoạn nghiên cứu tôi đều chuyển về Việt Nam để "double-check" nhằm xác định các vị trí chuẩn chỉnh nhất. Rồi từ đó tiến hành thuyết phục các bạn Nga để tổ chức thực hiện..." - Dũng kể.
Ban đầu các lãnh đạo, kỹ sư nước bạn còn khá e dè, chưa thật đồng thuận với cách làm của phía Việt Nam. Nhưng sau 1-2 năm sản lượng dầu thu về vẫn được giữ vững trên 3 triệu tấn/năm thì họ bắt đầu cùng đồng hành để nghiên cứu thực hiện và kết quả ngọt ngào đã đến với Rusvietpetro khi mà sản lượng khai thác trên 3 triệu tấn/năm không những được giữ vững đến nay mà còn dự báo đến năm 2028 và có thể còn lâu hơn.
Dũng cũng hiểu rằng, việc giữ vững sản lượng khai thác dầu thôi vẫn là chưa đủ. Vấn đề tiếp theo phải giải quyết chính là bài toán lợi nhuận. Những năm đầu được ưu đãi theo chính sách thu hút đầu tư nên dòng tiền vẫn tốt. Ít năm sau thì dòng tiền bỗng "hụt" đi đáng kể. Mặc dù doanh thu của Liên doanh rất lớn, nhưng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu chỉ đạt khoảng 9%. Làm việc cật lực, tiết giảm các loại chi phí, doanh thu tăng, vậy tại sao lợi nhuận lại ít thế? Sau nhiều đêm trằn trọc, thậm chí thức trắng Dũng đi đến quyết định: "Phải tìm cách xin cơ chế cho Liên doanh". Nghĩ là làm, anh đề đạt nguyện vọng với đồng chí lãnh đạo Tập đoàn. Vừa nghe xong, vị này nói luôn:
- Ý kiến của em rất hay, nhưng để làm việc này thì khó hơn cả lên trời.
Nghĩ một lúc, ông nói thêm: "Anh đố mày làm được" và: "Việc này chả khác nào đâm đầu vào đá đâu em à!"
Thêm nhiều đêm dài suy nghĩ, rồi Dũng bụng bảo dạ: "Có đâm đầu vào đá thì cũng phải làm".
Anh tham khảo nhiều thông tin về quá trình hoạt động hiệu quả của Liên doanh Vietsovpetro, sau đó cùng với các ban chuyên môn của hai phía thảo công văn gửi các Bộ, ngành liên quan của hai Nhà nước để "kêu" về vấn đề cơ chế. Và "cửa" khoai nhất là làm sao nhận được sự đồng thuận của hai phía tham gia cùng nhau đệ trình vấn đề tồn tại của Rusvietpetro để lãnh đạo hai nước quan tâm, ủng hộ.
Từ cuối năm 2021, tranh thủ các cuộc thăm viếng giữa lãnh đạo hai Nhà nước Việt Nam và Liên bang Nga các văn bản hết sức có lý, có tình đã được đệ trình, và cuối cùng lãnh đạo hai Nhà nước đã đồng ý ký kết.
Khi nút thắt này được tháo gỡ, từ lợi nhuận của dự án nếu không có cơ chế đặc thù chỉ đạt khoảng 100 triệu USD/năm đã vọt lên khoảng 600 triệu USD/năm. Đồng nghĩa mỗi năm một số tiền khoảng 200-250 triệu USD sẽ chảy thẳng vào ngân sách Việt Nam.
Niềm vui không chỉ đến từ việc mang lại hiệu quả to lớn cho Liên doanh, mà còn là sự thừa nhận cho những nỗ lực không ngừng nghỉ của Dũng và cả đội ngũ phía sau anh. Thành công này cũng là minh chứng cho sự kiên trì, dám nghĩ dám làm và không bao giờ từ bỏ trong một hành trình đầy thử thách. Dũng, với quyết tâm và tầm nhìn của mình, đã một lần nữa chứng minh rằng, trong ngành dầu khí, không có thử thách nào là không thể vượt qua, miễn là ta có đủ ý chí và sự sáng tạo để tìm ra lối đi.
Là người lo xa, nhận thấy cơ chế dành cho Rusvietpetro chỉ kéo dài đến năm 2033 (nghĩa là khoảng 10 năm sau khi lãnh đạo hai Nhà nước đặt bút ký), Dũng ngẫm nghĩ nếu dừng lại ở đó thì các thế hệ sau sẽ rất khó làm. Anh tiếp tục đệ trình những tâm tư để lãnh đạo hai Nhà nước quan tâm hỗ trợ. Và cơ chế thuận lợi cho hoạt động của Rusvietpetro đã được kéo dài đến năm 2050 - năm kỷ niệm 100 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao!
Hai mặt trong một con người
Ngược dòng thời gian năm 2010, Dũng được giao nhiệm vụ phụ trách dự án tại Uzbekistan khi mà nó vẫn chưa nhận được chấp thuận tiếp nhận đầu tư của Tổng thống Uzbekistan (ở thời điểm đó Uzbekistan gần như "đóng cửa" với đầu tư nước ngoài để giữ ổn định chính trị trong nước).
Sau gần một năm chạy vạy khắp nơi, dự án vẫn chưa nhận được sự chấp thuận của nước bạn. Toàn bộ từ Ban lãnh đạo đến nhân viên trong dự án đã bắt đầu hoang mang, lo lắng về tương lai có thể không triển khai được dự án. Khi đó, Dũng vẫn với nụ cười hiền, nhưng không một chút dao động. Anh nói: "Không sao đâu, mấy anh em mình còn thì nhất định phải giải quyết được nút thắt sống còn này". Rồi anh tiếp tục "xắn tay", kiên trì kiểm tra những điểm mạnh điểm yếu của ngành dầu khí Uzbekistan cũng như những điểm mạnh của ngành dầu khí Việt Nam, đồng thời tận dụng tối đa mối quan hệ chính trị tốt đẹp giữa hai Nhà nước để giải quyết vấn đề. Chỉ sau một thời gian ngắn nút thắt đã được giải quyết trong sự vỡ òa không chỉ của toàn thể cán bộ dự án mà còn có cả sự phấn khởi của lãnh đạo Petrovietnam lúc bấy giờ.
Đó chỉ là một trong hàng chục tình huống "sống còn" mà Dũng luôn là người đi đầu. Anh không chỉ hô hào từ xa. Từ ngày đầu triển khai dự án ở Uzbekistan hay khi mới nhận nhiệm vụ tại Liên bang Nga, anh đã từng cùng công nhân, cán bộ kỹ thuật xẻ dọc hoang mạc kiểm tra, thảo luận thiết kế từng tuyến địa chấn, từng phương án khoan, phương án thử vỉa... hay đã từng lội tuyết kiểm tra từng tuyến đường mùa đông. Nhiều đêm anh cùng cán bộ kỹ sư ngủ ngay trong container - giữa hoang mạc Uzbekistan hay nơi cực Bắc lạnh lẽo của Liên bang Nga.
Có lần, giữa cuộc họp kỹ thuật nội bộ, một kỹ sư trẻ buột miệng nói: "Có lẽ mình nên thỏa hiệp với các bạn trong phương án khoan đan dày năm nay anh ạ". Dũng nhớ lại lại chuyện năm xưa, khi phải đối mặt với những quan điểm khác nhau về địa chất ngay cả với những lãnh đạo cao nhất.
"Nếu thỏa hiệp, phía Việt Nam sẽ không chứng minh được hệ thống dầu khí - mặc dù đã tiêu tốn của Nhà nước hàng chục triệu đô la - là hiệu quả. Và càng không chứng minh được sự đam mê nghề nghiệp của cả một tập thể. Nếu thỏa hiệp chúng ta sẽ mãi chỉ đi sau người khác và sản lượng khai thác của dự án sẽ lao dốc không phanh như dự báo", anh khẳng định bằng giọng trầm mà dứt khoát.
Nhiều đồng nghiệp nhận xét những câu nói của Dũng không sáo rỗng. Chúng là ngọn lửa, là năng lượng sống. Nhiều kỹ sư, chuyên viên từng định xin chuyển về nước vì quá mệt mỏi, hoặc do những tác động của tình hình dịch bệnh hay những biến động chính trị, kinh tế và xã hội sau khi được Dũng trực tiếp chia sẻ và khích lệ, đã ở lại, và chính những con người này đã cùng anh xây dựng nên hình ảnh đẹp đẽ của những người lao động dầu khí Việt Nam trong Liên doanh nói riêng và tại Liên bang Nga nói chung.
Sự lãnh đạo của Dũng không đến từ chức danh, mà từ chính sự hiện diện. Ở nơi mà cây cỏ cũng không cao quá 50cm vì nắng nóng hay ở nơi hơi thở cũng có thể hóa băng, Dũng không để ai cảm thấy đơn độc. Anh là người giữ ngọn lửa, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, xoa dịu những nỗi đau thất bại nơi hoang mạc hay sưởi ấm cho niềm tin giữa giá lạnh phương Bắc.
Nhưng đây chỉ là "một mặt" của con người anh, một người luôn giữ được nụ cười ngay cả trong "bão tuyết", luôn đi đầu dù bước chân có thể ngập sâu trong bùn lạnh. Anh không chỉ đưa ra mệnh lệnh mà luôn luôn cùng anh em, cầm tay họ qua những đoạn khó khăn nhất. Trong mọi tình huống, anh là điểm tựa vững chắc, là ngọn cờ tiên phong, là người dám đi trước để cả đội ngũ được vững bước tiến về phía trước.
Còn bộ mặt thứ hai của Dũng lại hoàn toàn khác, gần như không ai biết đến. Bề ngoài lúc nào cũng vui vẻ, lạc quan, nhưng trong lòng anh cũng có những nỗi buồn khi thất bại. Và cả những áp lực ngàn cân mà anh chỉ cất giữ cho riêng mình.
Những đêm dài không ngủ, những lần phải đối diện với những quyết định khó khăn, Dũng cảm thấy đơn độc hơn bao giờ hết. Anh biết rằng, mọi quyết định mình đưa ra sẽ ảnh hưởng đến bản thân và cả sự nghiệp của cả đội ngũ, cả tập thể. Nhưng ngặt nỗi, anh không thể chia sẻ hết mọi khó khăn với anh em, vì anh hiểu rằng họ cần một người lãnh đạo vững vàng, không để cho sự mệt mỏi và lo âu làm ảnh hưởng đến công việc. Những lúc không có ai bên cạnh, Dũng lại chìm vào những suy tư, những đêm dài không ngủ trong bài toán chưa có lời giải. Nhưng anh chưa bao giờ để cho mọi người thấy được nỗi buồn ấy, anh vẫn luôn giữ vững khuôn mặt tươi cười, chào đón mọi thử thách mới.
Cái "hai mặt" ấy là một phần không thể thiếu trong cuộc đời Dũng. Đó là một sự hy sinh, một cuộc chiến giữa lý trí và cảm xúc, giữa trách nhiệm và sự yếu đuối. Anh luôn phải đấu tranh với chính mình để giữ vững hình ảnh mạnh mẽ, kiên cường của một người lãnh đạo, đồng thời phải học cách đối diện với những áp lực không thể chia sẻ với ai. Nhưng có lẽ, chính những khía cạnh đối lập ấy đã tạo nên sự đặc biệt trong con người Dũng - một người lãnh đạo giỏi giang, quyết liệt và cũng đầy nhân văn, luôn biết cách cân bằng giữa công việc và cảm xúc, giữa sự nghiệp và cuộc sống riêng tư.
Chắc hẳn, những ai làm việc cùng Dũng đều cảm nhận được một điều: dù có bao nhiêu thử thách, dù có phải đối mặt với những khó khăn đến đâu, anh vẫn luôn là người đi đầu, là người gánh vác mọi gánh nặng mà không bao giờ để cho ai cảm thấy nặng lòng cùng.
Ngọn lửa ấm
Đằng sau người đàn ông dấn thân không mỏi mệt ở những nơi "hoang mạc và băng giá", là một người phụ nữ lặng lẽ hy sinh cho chồng được toàn tâm toàn ý làm việc. Vợ anh, một người phụ nữ duyên dáng, nhỏ nhắn nhưng đầy nghị lực - đã cùng anh rong ruổi suốt chặng đường đầy khó khăn và thử thách từ hoang mạc Uzbekistan đến vùng cực Bắc lạnh giá của nước Nga.
Chị là hậu phương vững chắc và cũng là người bạn đồng hành thực sự - cùng học tiếng, cùng làm quen với khí hậu và văn hóa khác biệt, chấp nhận sự cô lập, nuôi con trong điều kiện y tế thiếu thốn và hệ thống giáo dục xa lạ. Ở những nơi mà trường học không bao giờ nhắc đến ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, nơi mùa hè nóng đến 450C, hay nơi mùa đông tuyết phủ trắng không thấy mặt trời suốt nhiều tuần liền, vợ anh đã tự tay dạy các con học tiếng Việt, văn hóa Việt. Chị tìm mua từng viên thuốc, từng hộp sữa đặc biệt gửi từ Việt Nam sang, xoay xở với cuộc sống không bạn bè, khác biệt về nếp sống và văn hóa, chỉ để chồng mình yên tâm "trụ vững giữa tiền tuyến".
Anh từng nói: "Mình có thể gánh cả một sự nghiệp tìm dầu nơi đất khách, nhưng nếu vợ mình không chịu nổi, mình sẽ gục đầu tiên". Vợ anh không bao giờ yêu cầu điều gì lớn lao, chị chỉ cần chồng khỏe, dự án thành công, và con cái ngoan ngoãn, được học hành. Sự hy sinh ấy thầm lặng nhưng lớn lao, góp phần tạo nên sức mạnh tinh thần không gì lay chuyển của Dũng.
Có lẽ chính nhờ hậu phương kiên cường ấy mà Dũng đủ bản lĩnh để đi trước, đối đầu với những trận bão tuyết, những cuộc đàm phán căng thẳng, và cả những quyết định làm thay đổi vận mệnh hàng triệu tấn dầu mỗi năm.
Chỉ có những người trải qua mới hiểu, rằng khám phá dầu khí trên đất Nga không chỉ là kỹ thuật. Đó là cuộc đấu trí với nhiều người, quan điểm khác nhau - thậm chí đối lập, và cả với sự khắc nghiệt của thiên nhiên... Trong hoàn cảnh ấy, Dũng vẫn là người gắn bó với những quyết sách quan trọng của Petrovietnam về việc vươn ra nước ngoài, những quyết định sẽ góp phần quyết định an ninh năng lượng quốc gia.
Chúng tôi còn nhớ, Tổng Giám đốc Rusvietpetro Alexei Kulakov đã đánh giá rất cao năng lực và các phẩm chất của các cán bộ mà Petrovietnam cử sang làm việc tại Liên doanh, nhất là các kiến thức, kỹ năng đặc thù của lĩnh vực và khả năng phối hợp, làm việc nhóm. "Có nhiều việc trong Liên doanh mà chỉ chúng tôi thôi thì không làm được. Phải có các bạn Việt Nam chung sức", ông Alexei khẳng định.
Tạm biệt Dũng, chúng tôi nhớ mãi lời tâm sự của ông Phedorov - Thống đốc khu tự trị Nhenhetsky, từng giãi bày với nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong một lần lãnh đạo Đảng, Nhà nước sang thăm Liên doanh: "Ở vùng cực Bắc này, chỉ sống trong nhà cũng đã khó, nói gì đến phải lao động trên công trường. Chúng tôi cảm ơn những người thợ dầu khí của Liên doanh Rusvietpetro đã mang đến cho vùng băng giá này ngọn lửa sưởi ấm mới..."
Chỉ với 30 con người mà Liên doanh Rusvietpetro mỗi năm mang về cho Nhà nước 250 triệu USD (chưa tính vốn và khấu hao), nghĩa là một cán bộ làm ra số tiền hơn 8 triệu USD (200 tỷ VND) /năm. Quả là một con số "biết nói".
Đoàn Minh Tiến
Nguồn PetroTimes: https://petrovietnam.petrotimes.vn/nguoi-giu-lua-o-bac-cuc-730285.html