Người Hà Quảng phát huy di sản hát Then

Từ bao đời nay, hát Then đã trở thành sinh hoạt văn hóa không thể thiếu của đồng bào các dân tộc Tày ở huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, đặc biệt là vào dịp đầu Xuân.

Các nghệ nhân hát Then ở huyện Hà Quảng. (Ảnh: TGCC)

Các nghệ nhân hát Then ở huyện Hà Quảng. (Ảnh: TGCC)

Những làn điệu Then mượt mà hòa quyện cùng tiếng tính tẩu, lúc cao vút, lúc trầm lắng, tạo nên một không gian âm nhạc đầy thi vị. Giai điệu ấy như cuộc đối thoại giữa đất trời và con người, chất chứa những cảm xúc chân thành, mộc mạc. Lời ca không chỉ kết nối con người với thần linh, tổ tiên mà còn phản chiếu tâm hồn, gửi gắm ước mong về một năm mới an lành, hạnh phúc.

Nét đẹp văn hóa người Tày

Hát Then là loại hình nghệ thuật tổng hợp, kết tinh nhiều yếu tố như ngữ văn, âm nhạc, mỹ thuật, múa và diễn xướng dân gian, mang giá trị sâu sắc về lịch sử, văn hóa và xã hội. Đồng bào Tày ở huyện Hà Quảng thường cất lên những làn điệu Then trong các dịp trọng đại, đặc biệt là hội làng, lễ cầu đảo của gia đình, dòng họ mỗi dịp năm mới.

Hát Then ở mỗi vùng miền có cung quãng giống nhau, nhưng cách hát có đôi chút khác và về lời hát thì nhiều dị bản để phù hợp với đặc điểm và phong tục tập quán của từng địa phương.

Nghệ nhân Bế Thị Bích Dơ tại huyện Hà Quảng cho biết, bà con dân tộc Tày có một số loại Then phổ biến như: Then cầu mong (là loại Then vui, hát về tình ca, sử ca, thường tổ chức vào tháng Giêng hàng năm; người ta thường mời các ông bà có giọng hát hay về nhà làm lễ để cầu bình an, may mắn); Then chữa bệnh (bà con tin rằng Then có chức năng động viên, an ủi, dỗ dành, chữa lành nỗi đau của người bệnh).

Ngoài ra, hát Then còn có các hình thức khác như Then tống tiễn, thường được thực hiện khi gia đình có người qua đời, nhằm tiễn hồn người quá cố ra khỏi nhà, tránh ảnh hưởng đến người còn sống; Then vui mừng, chúc tụng xuất hiện trong các sự kiện trọng đại, đặc biệt tại những gia đình khá giả xưa kia, với mục đích chúc phúc, ca ngợi và cầu mong may mắn; Then trung lễ và đại lễ cấp sắc là những nghi lễ quan trọng, thường diễn ra từ ba đến năm năm một lần để cấp sắc cho các thầy Then. Nếu gia chủ chưa đủ điều kiện tổ chức đại lễ đúng kỳ hạn, họ có thể thực hiện trung lễ – một hình thức giản lược, chỉ mời một thầy Then làm lễ với hương, hoa quả dâng cúng binh mã và tổ sư, đồng thời xin khất đến kỳ sau sẽ làm đại lễ.

Các em thiếu nhi trong lớp học hát của nghệ nhân Bế Thị Bích Dơ. (Ảnh: TGCC)

Các em thiếu nhi trong lớp học hát của nghệ nhân Bế Thị Bích Dơ. (Ảnh: TGCC)

Lan tỏa làn điệu Then

Trong những năm qua, lãnh đạo tỉnh Cao Bằng và bà con nhân dân đã luôn quan tâm tới việc gìn giữ, phát triển, quảng bá và tôn vinh làn điệu Then. Liên hoan hát Then được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Cao Bằng tổ chức ba lần vào các năm 2017, 2019 và 2022. Đặc biệt, màn trình diễn hát Then, đàn tính với sự tham gia của 1.000 nghệ nhân, diễn viên và các em thiếu nhi dân tộc Tày tại Thác Bản Giốc đã xác lập kỷ lục Việt Nam, góp phần quảng bá sâu rộng loại hình nghệ thuật này.

Riêng đối với huyện Hà Quảng, hát Then đã được đưa vào trong Nghị quyết số 03-NQ/HU ngày 23/4/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hà Quảng (khóa XX) về phát triển dịch vụ, du lịch trên địa bàn huyện Hà Quảng giai đoạn 2021-2025 và Nghị quyết Đại hội đại biểu Chi hội Bảo tồn dân ca các dân tộc huyện Hà Quảng lần thứ II nhiệm kỳ 2023-2028.

Ông Hoàng Văn Khánh, cán bộ công tác tại Trung tâm Văn hóa và truyền thông thị trấn Xuân Hòa, huyện Hà Quảng, chia sẻ: “Phòng Văn hóa - Thông tin huyện đang xây dựng cơ chế khuyến khích, tôn vinh các nghệ nhân có công gìn giữ và truyền dạy nghệ thuật truyền thống. Đồng thời, địa phương cũng định hướng các xóm, bản sưu tầm chất liệu văn hóa dân gian, trong đó có hát Then, để xây dựng các chương trình biểu diễn phục vụ cộng đồng. Đây không chỉ là nhiệm vụ mà còn góp phần khơi dậy ý thức bảo tồn di sản văn hóa dân tộc”.

Gần đây, Trung tâm Văn hóa và Truyền thông huyện Hà Quảng đã mở lớp truyền dạy Then tại tổ Xuân Lộc và tổ Xuân Đại, thị trấn Xuân Hòa, do nghệ nhân Bế Thị Bích Dơ làm chủ nhiệm. Lớp hiện có 21 học viên ở nhóm tuổi từ 9-35 tuổi.

Trong khi giảng dạy, các nghệ nhân đã lồng ghép kể những câu chuyện văn hóa lịch sử, nguồn gốc các điệu hát Then, hay sự tích cây đàn tính và cách làm đàn khiến các học viên rất hào hứng.

Nghệ nhân Bế Thị Bích Dơ. (Ảnh: TGCC)

Nghệ nhân Bế Thị Bích Dơ. (Ảnh: TGCC)

Trăn trở gìn giữ di sản

Lãnh đạo tỉnh Cao Bằng đã quan tâm, đầu tư mạnh mẽ cho nghệ thuật hát Then. Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, giá trị của làn điệu này đang dần mai một dưới áp lực của các loại hình nghệ thuật hiện đại. Đặc biệt, sự thờ ơ của giới trẻ trong khi các nghệ nhân Then ngày một lớn tuổi khiến nguy cơ mai một càng rõ rệt. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ từ Nhà nước danh cho nghệ nhân mới chỉ dừng ở mức động viên, chưa có nguồn kinh phí đủ lớn để bảo đảm hoạt động truyền dạy và gìn giữ loại hình nghệ thuật độc đáo này.

Nghệ nhân Bế Thị Bích Dơ trăn trở: “Tôi may mắn có kinh nghiệm lâu năm và kỹ năng tốt về hát Then, đàn tính, nhưng tất cả đều do truyền thống gia đình truyền dạy, chưa qua trường lớp chuyên nghiệp. Điều đáng lo ngại là trong khi thế hệ trung niên và cao tuổi vẫn nhiệt tình đón nhận, thì giới trẻ lại chưa thực sự ý thức được giá trị của di sản này. Số học viên trẻ còn rất ít, chủ yếu vì thiếu đam mê với nghệ thuật truyền thống”.

Bà mong mỏi Nhà nước và các cơ quan chức năng sẽ quan tâm hơn, tổ chức nhiều liên hoan hát Then để các nghệ nhân có cơ hội giao lưu, nâng cao kỹ năng, qua đó quảng bá rộng rãi hơn loại hình nghệ thuật này và thu hút sự quan tâm của thế hệ trẻ.

Để nghệ thuật hát Then phát triển bền vững, trước hết cần sự tâm huyết của các nghệ nhân – những người gìn giữ và thổi hồn vào từng làn điệu. Việc sưu tầm, phục dựng các điệu Then cổ, đồng thời đa dạng hóa phương thức bảo tồn trên nền tảng giữ gìn giá trị nguyên gốc là điều rất cần thiết.

Tại các vùng Then, việc mở lớp học, thành lập câu lạc bộ, đội văn nghệ hát Then với lịch sinh hoạt định kỳ sẽ góp phần lan tỏa và duy trì sức sống của nghệ thuật độc đáo này.

Nghệ thuật hát Then mang đậm nét văn hóa diễn xướng dân gian truyền khẩu, trong đó nghệ nhân đóng vai trò quan trọng trong đào tạo thế hệ kế cận. Để bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật này, chính quyền địa phương cần thường xuyên tổ chức hội nghị tôn vinh nghệ nhân, có chính sách đãi ngộ hợp lý, đồng thời xây dựng chiến lược phát triển lâu dài để hát Then có thể tồn tại và phát triển bền vững, không bị phụ thuộc vào yếu tố kinh tế. Việc đầu tư tổ chức các liên hoan, hội diễn hát Then từ cấp tỉnh, cấp vùng đến cấp quốc gia sẽ góp phần thúc đẩy giao lưu, lan tỏa giá trị nghệ thuật trong cộng đồng.

Đặc biệt, cần đẩy mạnh quảng bá hát Then trên các phương tiện truyền thông, đồng thời lồng ghép vào chương trình giáo dục, hoạt động ngoại khóa trong trường học. Đây không chỉ là cách nâng cao nhận thức mà còn hun đúc tình yêu nghệ thuật truyền thống cho thế hệ trẻ với loại hình hát Then nói riêng và các loại hình văn nghệ dân gian nói chung.

Hát Then xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI vào thời nhà Mạc. Theo truyền thuyết, trong số quan lại của nhà Mạc, có hai vị tên là Đế Phụng và Đế Đáng rất yêu âm nhạc, thích ca hát, họ đã chế tạo ra tính tẩu và lập ra hai tốp hát để phục vụ cung đình.

Về sau, dân chúng thấy hay nên bắt chước và được lưu truyền trong dân gian. Ngày 12/12/2019, di sản thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam chính thức được UNESCO ghi danh Di sản phi vật thể đại diện nhân loại.

ThS. Nguyễn Thị Phương Lan

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/nguoi-ha-quang-phat-huy-di-san-hat-then-306069.html