Nhà báo Tạ Việt Anh với một niềm yêu cùng nỗi nhớ...

Với hơn 40 năm hoạt động trong lĩnh vực báo chí, sau khi rời vị trí Tổng Biên tập Báo Kinh tế & Đô thị về nghỉ chế độ, nhà báo Tạ Việt Anh vẫn miệt mài với nghiệp cầm bút. Nghỉ hưu, tham gia Hội đồng quản lý Quỹ Hỗ trợ các chương trình dự án an sinh xã hội Việt Nam - một tổ chức xã hội từ thiện phi lợi nhuận nên anh có dịp đến nhiều nơi, tới những vùng còn khó khăn của đất nước. Đây cũng là đề tài cho những bài viết trăn trở của anh, từ góc nhìn của một nhà báo, nhà hoạt động xã hội. Tôi chơi thân với nhà báo Tạ Việt Anh, dù kém anh 10 tuổi, nhưng trong cuộc sống anh luôn dành cho lứa đàn em những tình cảm gắn bó, thân thương.

Bìa sách “Về một niềm yêu cùng nỗi nhớ - NXB Hội Nhà văn -Ảnh: M.T

Bìa sách “Về một niềm yêu cùng nỗi nhớ - NXB Hội Nhà văn -Ảnh: M.T

Là người làm báo chuyên nghiệp nhưng cuộc đời của Tạ Việt Anh lại gắn phần lớn với nhiệm vụ quản lý các tờ báo ở Thủ đô Hà Nội. Do vậy dù đã in hàng ngàn bài báo trên các báo, nhưng anh ít lưu lại những bài báo để đời. Đó là tôi muốn nói anh phải dành thời gian cho những bài báo chính luận phục vụ nhiệm vụ báo chí hằng ngày, còn đâu thời gian để viết sâu về một đề tài, một vùng đất nào đó. Sau ngày nghỉ công tác, anh mới xuất bản cuốn sách “Những mảy vàng lấp lánh” - Nhà xuất bản Văn học, năm 2018. Và lần này sau 7 năm anh xuất bản tập sách thứ hai “Về một niềm yêu cùng nỗi nhớ” - Nhà xuất bản Hội Nhà văn, năm 2024.

Cuốn sách gồm 34 bài viết, dù không ghi thể loại trên sách nhưng hầu hết là bút ký, ghi chép về những câu chuyện đời, chuyện nghề nơi anh đến, những vùng đất đã qua, những con người đã gặp với văn phong giản dị, toát lên trách nhiệm của người cầm bút trước sự phát triển của mỗi vùng đất, thể hiện một phong cách làm báo, viết văn nghiêm túc, bền bỉ, giàu cảm xúc, đầy ắp tính nhân văn, như nhận xét của Tiến sĩ Nguyễn Tri Thức: “Qua hai cuốn sách của nhà báo Tạ Việt Anh đã ra mắt độc giả cho thấy sức làm việc bền bỉ, sự theo nghề dẻo dai, đức độ, rất đáng khâm phục. Càng đọc, tôi thấy đậm nét sự gần gũi, bình dị, chân chất, bộc trực nhưng không kém phần tinh tế, ý nhị, giàu tính nhân văn, thời cuộc trong từng con chữ, mỗi bài báo”.

Có thể nhận thấy tác phẩm của Tạ Việt Anh viết về nhiều vùng đất, ở trong và ngoài nước. Điều đó nhiều người đã viết, còn điều tôi đề cập trong bài viết này chỉ là một lát cắt, đó là “niềm yêu, nỗi nhớ” của anh về mảnh đất và con người miền Trung.

Trong tình hình sáp nhập các cơ quan báo - đài phát thanh truyền hình địa phương và nhập tỉnh hiện nay, đọc những tâm sự của nhà báo Tạ Việt Anh thấy ấm áp vô cùng: “Trong cuộc đời làm báo, tôi thấy may mắn và hạnh phúc vì đã có những năm tháng sống và làm việc trong đại gia đình báo Đảng. Trong đại gia đình ấy, tôi đã sống, làm việc, trưởng thành, có những đồng nghiệp cùng chia ngọt sẻ bùi như anh em một nhà. Hạnh phúc khi đi đến đâu cũng có những đồng nghiệp thật chân tình, niềm nở.” (Niềm tự hào không hề nhỏ).

Viết về Đà Lạt, thành phố ngàn hoa, anh tự đặt câu hỏi: Đà Lạt mùa nào là đẹp nhất? Người ta thường nói, một ngày Đà Lạt có tới bốn mùa. Có người lãng mạn lại đòi thêm một mùa nữa, ấy là “mùa yêu”. Khoan hãy nói về sự đúng- sai, bởi đã là yêu thì bất chấp quy luật của lý trí.

Anh kết lại câu hỏi của mình bằng một lý giải nhẹ nhàng, sau khi dạo quanh thành phố này nhiều lần, nhìn ngắm những biệt thự xinh xắn thấp thoáng trong rừng thông, dưới ánh nắng vàng, những lúc thành phố sương mờ bảng lảng hay trong một chiều mưa: “Và như thế, với hoa, với thông, với những kiến trúc tuyệt đẹp ẩn hiện trong sương cùng những con người hiền hòa, tài hoa, mến khách, chỉ có thể thốt tự đáy lòng: Đà Lạt mùa nào cũng đẹp, là nơi đã đến lòng ta luôn mong trở lại!” (Đà Lạt những mùa).

Là nhà báo có dịp đi đây đi đó, Tạ Việt Anh có thói quen thích ngồi ghế bên cửa sổ máy bay để ngắm nhìn vùng đất mình sắp đặt chân đến từ trên cao, lắng nghe những cảm nhận đầu tiên về một vùng đất mới. Anh có những cảm nhận rất riêng về màu xanh của mỗi vùng đất, như mỗi lần máy bay đáp xuống sân bay Phú Bài, cho dù không nhìn ra cửa sổ, anh vẫn thấy màu xanh của dãy Trường Sơn ngút ngàn tiếp nối với Biển Đông từ gương nước mênh mang của phá Tam Giang.

Anh chia sẻ: “Cảm nhận ấy cũng giống khi đến với Buôn Ma Thuột, Pleiku, Đà Lạt, Tuy Hòa..., những vùng đất miền Trung-Tây Nguyên mà tôi có duyên qua lại, gắn bó. Và tôi cứ vân vi, trong những đô thị mà tôi đã gửi gắm ít nhiều tình cảm ấy, nơi nào nhiều cây xanh, màu xanh hơn nơi nào?”.

Từ màu xanh ám ảnh, anh liên tưởng nó thấp thoáng đâu đó trong những đồ ăn, thức đựng, trong màu áo, giọng nói, dáng đi, trong ẩm thức dân dã mà không kém phần tinh tế, sang cả, trong những nếp nhà rường hàng trăm năm tuổi (Huế xanh, xanh tự trong lòng).

Có lần anh tâm sự: “Với tôi, miền Trung là vùng đất gắn bó, là một chốn đi về. Gắn bó vì ở đó có Quảng Trị, nơi tôi cùng đồng đội có những kỷ niệm khó quên thời binh lửa, có Huế, rồi Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên...với những đồng nghiệp thân thương”.

Trong các chuyến du xuân qua dải đất miền Trung, anh cảm nhận mỗi vùng đất có một đặc điểm riêng. Nếu như chặng đường từ Nghệ An qua Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị rồi thành phố Huế đang trong những ngày mưa lạnh bởi ảnh hưởng của đợt không khí lạnh tăng cường thì qua hầm Hải Vân, Đà Nẵng đón du khách với nắng vàng dịu nhẹ, gió xuân mơn man, biển xanh vờn cát trắng.

“Và góp vào cảnh sắc mùa xuân vốn đã hân hoan đó là màu vàng hoa cúc. Ở đâu nơi thành phố đáng sống này cũng có thể gặp những bông cúc nở vàng rực rỡ. Trước cửa các nhà dân ven đường, trên dải phân cách những con đường lớn hay trong công viên ven biển... Màu vàng của những cánh hoa cứ mong manh như tỏa nắng, thắp lên không khí ấm áp cho bàn thờ gia tiên hay sáng rõ nơi hiên nhà lộng gió trong những ngày Tết cổ truyền ở vùng đất miền Trung này” (Du xuân một khúc miền Trung).

Đến với thành phố Tuy Hòa, Tạ Việt Anh cũng có những cảm nhận riêng. Anh cho rằng sức hấp dẫn của dải đất miền Trung này tạo nên bởi chuỗi đô thị du lịch như Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang...Nếu ví những đô thị mặt hướng Biển Đông, lưng tựa Trường Sơn ấy như một chuỗi ngọc, thì có vẻ như Tuy Hòa, thủ phủ Phú Yên là viên ngọc còn đang đợi bàn tay tài hoa của người thợ chế tác để tỏa sáng.

Có dịp qua về Tuy Hòa nhiều lần, khi thì bằng tàu hỏa, khi thì đi đường bộ, Tạ Việt Anh nhận thấy sức hấp dẫn của vùng đất này chính là chất thô tháp, nguyên sơ của cảnh vật, con người và văn hóa nơi đây. Đó cũng là nét đẹp của một vùng đất mà ở đó, du lịch đang còn nhiều dư địa để khai thác, trở thành mũi nhọn kinh tế của Phú Yên.

Và anh dự cảm: “Với tiềm năng về cảnh vật, con người và văn hóa ẩm thực, tin rằng vùng đất ào ạt gió và chan hòa nắng này sẽ trở thành một trung tâm du lịch đầy hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước. Đó là một hướng đi đã được khẳng định” (Tuy Hòa, cảm nhận và suy nghĩ).

Trong tác phẩm “Cơ duyên với Cụ Loa”, Tạ Việt Anh lại kể về cỗ loa cực đại 500W bên bờ sông tuyến Hiền Lương trong những năm tháng đất nước còn chia cắt. Đó là dịp tháng 3 năm 1972, anh cùng đơn vị Tiểu đoàn 2, Trung đoàn công binh phà 249 tham gia phục vụ chiến dịch giải phóng Quảng Trị, anh và đồng đội đến Hồ Xá, thấy cảnh thị trấn bị bom đạn địch tàn phá nặng nề.

Khi đến Đài truyền thanh đặc khu Vĩnh Linh, anh nhìn thấy một cỗ loa. Nhờ cán bộ của đài kể mà anh biết được câu chuyện về chiếc loa có công xuất 500W được dùng để tuyên truyền di động bên bờ Bắc sông Bến Hải hướng về bờ Nam thời đất nước bị chia cắt ở dòng sông này. Sau chiến tranh về học đại học, rồi đi làm báo, mãi cho đến khi nghỉ hưu, anh được điều về Trung ương Hội Nhà báo Việt Nam làm việc.

Công việc giai đoạn này thì nhiều, sau cùng anh làm Phó trưởng Ban quản lý dự án xây dựng Bảo tàng Báo chí Việt Nam. Khi về Quảng Trị, anh được nghe câu chuyện có một phiên bản “Cụ Loa” còn lại ở gần Khu Di tích đôi bờ Hiền Lương- Bến Hải, vậy là anh cùng với anh em trong Thường trực Hội Nhà báo Quảng Trị đến mục sở thị, rồi thuyết phục để Sở Văn hóa, Thể thao và du lịch, UBND tỉnh Quảng Trị tặng lại hiện vật này cho Bảo tàng Báo chí Việt Nam. Hiện “Cụ Loa” này được trưng bày tại Bảo tàng Báo chí Việt Nam ở phố Dương Đình Nghệ, Hà Nội.

Vậy là cho đến nay, khi kể lại câu chuyện trên, cũng đã ngót 50 năm Tạ Việt Anh có cơ duyên gặp lại “Cụ Loa”, như chứng nhân về một giai đoạn lịch sử hào hùng nơi đất lửa Vĩnh Linh. Cũng viết về Quảng Trị, anh có những chia sẻ rất chân tình: “Riêng cá nhân tôi, với Quảng Trị, không chỉ có những hành trình Nghĩa tình tháng Bảy. Bất cứ khi nào có cơ hội là lòng tôi lại hướng về vùng đất mà tôi coi như quê hương thứ hai này. Và khi nhắc tới những chuyến đi ấy, tôi hay nói với người thân, bạn bè, đồng nghiệp: Rằng tôi đang về Quảng Trị! (Về Quảng Trị).

Có thể tìm thấy nhiều điều thú vị từ góc nhìn của nhà báo Tạ Việt Anh qua những bài viết với sự thấu hiểu và mến yêu những con người, vùng đất, đặc biệt là “khúc ruột miền Trung”, nơi anh có những đồng nghiệp, những người bạn thâm giao, nghĩa tình. Cái sự chân thành, giàu chất suy tư trong tác phẩm của Tạ Việt Anh có sức lay động, chạm đến trái tim người đọc, cho dù câu chữ anh dùng không hề có sự bay bướm, đánh bóng câu chữ, đánh đố người đọc. Ngược lại văn phong của của anh trong sáng, bình dị, thấm đẫm tính nhân văn, giàu sự chiêm nghiệm, coi trọng tính giải pháp...

Đó có thể là kết quả gặt hái được của một nhà báo luôn cần mẫn, yêu nghề, trải nghiệm nhiều, tuy đã “nghỉ hưu nhưng không nghỉ việc” suốt hơn chục năm qua.

Minh Tứ

Nguồn Quảng Trị: http://www.baoquangtri.vn/nha-bao-ta-viet-anh-voi-mot-niem-yeu-cung-noi-nho-194419.htm