Nhiều quy định về quản lý mỹ phẩm còn chồng chéo, tạo thêm gánh nặng cho doanh nghiệp
Một số quy định về trách nhiệm của cơ sở công bố sản phẩm mỹ phẩm còn chồng chéo, tạo thêm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp.

Nhiều loại mỹ phẩm đã bị thu hồi trong thời gian gần đây
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chỉ ra một số điểm chồng chéo trong Dự thảo Nghị định quy định về quản lý mỹ phẩm đang được Bộ Y tế lấy ý kiến.
Theo đó, Điều 52.6 Dự thảo quy định cơ sở công bố thực hiện công bố tiêu chuẩn sản phẩm mỹ phẩm theo quy định của pháp luật trong vòng 15 ngày kể từ ngày được yêu cầu trong trường hợp tiêu chuẩn cơ sở chưa có trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.
Điều 52.7 Dự thảo quy định cơ sở công bố phải thực hiện lưu mẫu sản phẩm mỹ phẩm theo yêu cầu bảo quản ghi trên nhãn sản phẩm đối với tất cả các lô sản phẩm mỹ phẩm lưu thông trên thị trường đến hết hạn sử dụng của mỹ phẩm.
Trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu cung cấp mẫu lưu để kiểm tra chất lượng, trong thời hạn 07 ngày, cơ sở công bố phải phối hợp với cơ sở sản xuất cung cấp mẫu lưu của lô sản phẩm có yêu cầu kiểm tra chất lượng của cơ quan quản lý nhà nước. Số lượng mẫu cung cấp phải bảo đảm thực hiện kiểm nghiệm được ít nhất 03 lần với đầy đủ chỉ tiêu chất lượng sản phẩm mỹ phẩm.
VCCI đánh giá những quy định này đang tạo ra những gánh nặng không cần thiết cho doanh nghiệp. Cụ thể là có sự chồng chéo về công bố tiêu chuẩn. Việc yêu cầu cơ sở mỹ phẩm công bố tiêu chuẩn sản phẩm theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật trong khi đã tuân thủ Nghị định về quản lý mỹ phẩm là không cần thiết. Doanh nghiệp sẽ phải thực hiện hai thủ tục công bố tại hai hệ thống dữ liệu khác nhau, tạo ra gánh nặng hành chính, đặc biệt khi cơ sở dữ liệu quốc gia chưa được quản lý hiệu quả.
Hai là tạo ra thêm gánh nặng lưu mẫu và kiểm nghiệm. Quy định về lưu mẫu sản phẩm và cung cấp đủ mẫu cho ít nhất ba lần kiểm nghiệm với đầy đủ chỉ tiêu là không hợp lý vì mẫu đã được lưu tại nhà máy các nước khác theo nguyên tắc CGMP (bộ quy tắc và hướng dẫn về thực hành sản xuất tốt hiện hành nhằm đảm bảo sản phẩm).
Đồng thời, thời gian 7 ngày để vận chuyển mẫu từ nước ngoài về Việt Nam khó xảy ra trong thực tế, đặc biệt từ các nước châu Âu, châu Mỹ. Riêng trường hợp mã số công bố đã hết hiệu lực nhưng sản phẩm vẫn đang lưu thông trong hạn dùng, khi cơ quan quản lý yêu cầu cung cấp mẫu, doanh nghiệp sẽ phải nộp đơn hàng nhập khẩu và mất nhiều thời gian hơn 7 ngày.
Vì vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét, loại bỏ các quy định này, đồng thời, xem xét loại bỏ tương tự với các điều khoản lưu trữ và lấy mẫu cho cơ sở sản xuất mỹ phẩm ở Điều 53 Dự thảo.
Tương tự, Điều 54, 55 Dự thảo quy định trách nhiệm báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng liên quan đến sản phẩm mỹ phẩm của cơ sở nhập khẩu, kinh doanh mỹ phẩm. Theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định này cũng chồng chéo.
Việc báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng lên bộ Y tế đã được quy định là trách nhiệm của cơ sở công bố ở Điều 52.13 Dự thảo nên việc quy định thêm như vậy cho hai cơ sở khác là điều không cần thiết.
Vì vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét, loại bỏ những quy định này.
Thời gian qua, vi phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh hóa mỹ phẩm có dấu hiệu gia tăng. Nhiều loại mỹ phẩm đang lưu thông trên thị trường cũng buộc phải thu hồi do không đảm bảo chất lượng.
Các chuyên gia cho rằng, siết chặt quản lý mỹ phẩm là cần thiết để đảm bảo sức khỏe và quyền lợi của người tiêu dùng nhưng không nên đặt thêm các điều kiện chồng chéo, gây khó khăn cho doanh nghiệp.