Nhịp điệu mới trong tập thơ 'Độc lập' của 5 tác giả
Việc 5 tác giả cùng xuất hiện trong một tập thơ in chung vừa được NXB Hội Nhà văn ấn hành, vô tình trở thành một 'hiện tượng' vì kiểu thơ in chung này chỉ phổ biến ở thời trận mạc cách đây nửa thế kỷ. Họ cũng là 5 nhà thơ trước đó đã có thơ in riêng như: Trần Vũ Long, Lê Anh Hoài, Hoàng Xuân Tuyền, Đoàn Mạnh Phương, Hoàng Ngọc Châu.
Tập thơ có tựa đề là "Độc lập" nhưng 5 tác giả mỗi người là một giọng thơ riêng khác nhau. Vậy chúng ta thử tìm hiểu xem gương - mặt - thơ của mỗi người được trình hiện ra sao trong tập thơ này.

5 tác giả của tập thơ “Độc lập”.
Trong hành trình sáng tạo, thơ ca không chỉ phản ánh hiện thực mà còn mở ra những chiều sâu của đời sống tinh thần con người. Với Trần Vũ Long, mỗi bài thơ là một nỗ lực khám phá bản thể người trong mối quan hệ với thiên nhiên, xã hội và chính bản thân mình. Ba bài thơ "Áo đá", "Bài ca tự do" và "Mặt nạ" cho thấy anh có một phổ rộng cảm xúc, từ sự ngưỡng vọng sử thi đến nỗi hoài nghi thời cuộc, rồi trượt xuống tầng sâu bi kịch hiện sinh. Qua đó, nhà thơ định hình phong cách giàu biểu tượng, kết hợp giữa tính sử thi và chiều kích triết lý.
Ở bài thơ "Áo đá", cảm xúc chủ đạo là niềm tự hào và ngưỡng mộ sức sống bền bỉ của con người miền cao nguyên đá Đồng Văn. Thi sĩ đã tái hiện một không gian vừa hùng vĩ vừa khắc nghiệt: “trùng trùng mùa cúc đá”, “người héo người tươi lẫn chìm nét đá”. Trong thế giới ấy, đá không chỉ là thử thách mà còn là nền tảng nuôi dưỡng sự sống.
Tứ thơ hình thành từ mối quan hệ đối ứng giữa đá và người khi đá dày đặc bao quanh nhưng cũng chính đá nâng đỡ “dựng chân người đứng thẳng”. Hình tượng hoa cúc đá, hoa tam giác mạch gợi sức sống mầm xanh nảy nở giữa chốn khô cằn, để từ đó hiện lên dáng hình người Đồng Văn như “cọc tiêu Tổ quốc”.
Kiến tạo tứ thơ bằng các biểu tượng giàu sức gợi cảm
Nhìn tổng thể, ba bài thơ tiêu biểu cho ba cung bậc của thơ Trần Vũ Long với điểm chung là cách kiến tạo tứ thơ bằng những đối cực đồng thời sử dụng nhiều hình tượng biểu tượng giàu sức gợi. Thơ anh vì thế vừa cụ thể, gần gũi, vừa mang tính khái quát, triết lý; cảm xúc không đơn tuyến mà luôn căng thẳng, đan xen giữa ngợi ca và phủ định, giữa hy vọng và tuyệt vọng.
Có thể nói, Trần Vũ Long đã tìm được một tiếng nói riêng kết hợp chất sử thi dân tộc với chiều sâu triết luận của thơ hiện đại, đặt con người vào những hoàn cảnh giới hạn giữa thiên nhiên khắc nghiệt với xã hội và bản thể hư vô, để từ đó làm nổi bật sức sống, khát vọng cũng như bi kịch của họ. Chính sự hòa quyện giữa cảm xúc nồng nàn, tứ thơ nghịch lý và hình tượng biểu tượng đã tạo nên sức vang vọng, góp phần khẳng định giọng điệu độc đáo của anh trong thơ ca đương đại.
Với tác giả Lê Anh Hoài thì hành trình thơ của anh hướng đến sự phá vỡ chuẩn mực thơ ca từ tụng ca nghịch lý đến mảnh vỡ hiện sinh. Thứ thơ này thường được nhìn nhận như một hiện tượng hậu hiện đại trong thi ca Việt Nam đương đại khi giàu chất giễu nhại, khai thác nghịch lý, đồng thời mở ra những ám ảnh hiện sinh sâu sắc.
Ba bài thơ "Tụng ca em", "Hai đoản khúc mây" và "Mảnh mảnh mảnh" thể hiện rõ tinh thần ấy. Chúng cho thấy một phổ cảm xúc vừa mỉa mai, vừa ngổn ngang hoài nghi, vừa chất chứa suy tưởng về sự tồn tại. Điểm đặc sắc nằm ở cách kiến tạo tứ thơ phi truyền thống và dựng nên hình tượng nghệ thuật lạ hóa để biểu đạt tâm thế con người trong thời hiện đại.
Có thể thấy rằng, thơ Lê Anh Hoài đã cho thấy một giọng điệu độc đáo, vừa châm biếm mà triết lý, vừa hiện thực mà hư ảo. Anh biến những điều tưởng chừng quen thuộc thành biểu tượng để suy tư về thân phận con người trong một thế giới nhiều biến động, nơi tình yêu có thể bị công nghiệp hóa và sự tồn tại luôn vỡ vụn trong ký ức và thời gian.
Trong thơ Lê Anh Hoài, cảm xúc thơ không phải là dòng chảy thuần khiết, mà luôn pha trộn, vừa hài hước vừa cay đắng, vừa hồn nhiên vừa ám ảnh. Tứ thơ được kiến tạo từ nghịch lý và đối cực, phá vỡ trật tự truyền thống. Hình tượng nghệ thuật giàu tính biểu tượng, thường lạ hóa đời thường (tình yêu như khẩu hiệu, mây như cặp vợ chồng, con người như mảnh vụn). Qua đó, thơ anh không chỉ là sự giễu nhại mà còn là cách đặt câu hỏi lớn về tình yêu, tự do, và sự tồn tại.
Còn với tác giả Hoàng Ngọc Châu, thơ là tiếng nói giàu ám ảnh nhân sinh, luôn tìm cách cất lên những nốt nhạc vừa bi thiết vừa day dứt trong dòng chảy đời sống. Thơ anh nghiêng về những góc khuất, những thân phận, những khoảnh khắc đối diện với sự mong manh của kiếp người. Ba bài thơ "Trong đám tang một nhà thơ", "Người đàn ông mù" và "Ghi ở nhà bạn" đã bộc lộ rõ nét phong cách ấy với cảm xúc lắng sâu, tứ thơ giàu nghịch lý và hình tượng nghệ thuật mang tính biểu tượng.
Thơ Hoàng Ngọc Châu có điểm chung là cảm xúc chân thành nhưng không đơn tuyến; tứ thơ được xây dựng từ những đối cực sống và chết, sáng và tối, thực và ảo, kỷ niệm và hiện tại; hình tượng nghệ thuật đa dạng, tất cả đều gợi mở những tầng nghĩa mới. Anh đã dùng cái nhìn nhân bản để chạm tới những thân phận và những khoảnh khắc bi thiết, từ đó đặt ra câu hỏi về sự tồn tại, về giá trị của tình người.
Thơ tự do với những ám ảnh nhân sinh và hiện sinh
Thơ ca hiện đại, trong nhiều trường hợp, không còn chủ yếu hướng về cái đẹp êm đềm mà tập trung vào sự khốc liệt, chênh vênh của đời sống. Đoàn Mạnh Phương là một trong những tiếng thơ của tinh thần ấy. Các bài thơ "Nghĩ", "Nhân thế" và "Giới hạn" đã hé lộ một tâm thức hiện sinh đầy hoang mang khi con người phải đối diện với sự rỗng không, với tha hóa, và với những biên độ chật hẹp của đời sống. Ở đây, cảm xúc thơ dồn nén, tứ thơ dựng lên bằng nghịch lý, và hình tượng nghệ thuật mang đậm chất biểu tượng, nhiều khi như một “nghệ thuật sắp đặt” của chính ngôn từ.
Cả ba bài thơ đều có những điểm gặp gỡ. Thứ nhất, cảm xúc thơ chủ đạo là sự hoang mang, bi thiết, vừa bức bối vừa day dứt, không tìm được lối ra. Thứ hai, tứ thơ thường được xây dựng bằng đối cực và sự trùng điệp, giữa sống và chết, phúc và họa, nhạt và đậm, hiện và vắng; nhờ đó bài thơ trở thành những “nghệ thuật sắp đặt” của ngôn từ, gợi cảm giác bất định. Thứ ba, hình tượng nghệ thuật giàu tính biểu tượng với chiếc bóng, ngôn ngữ chảy máu, giới hạn mơ hồ. Chúng không chỉ mô tả hiện thực mà còn mở ra suy tư triết học về thân phận người.
Trong tập thơ "Độc lập", Hoàng Xuân Tuyền là tiếng thơ của những hình tượng dị biệt và bi kịch hiện sinh. Trong diện mạo thơ đương đại Việt Nam, Hoàng Xuân Tuyền xuất hiện như một giọng thơ giàu tính thể nghiệm, luôn nỗ lực phá vỡ những giới hạn quen thuộc của thi ca để tìm kiếm ngôn ngữ biểu đạt mới. Thơ anh thường gây ám ảnh bởi sự dữ dội, những hình tượng dị biệt và những câu hỏi xoáy sâu vào bản thể con người. Ba bài thơ "Thuở giòi", "Mặt trời, trăng và thơ" và "Khóc thật cho một kiếp rối" tiêu biểu cho phong cách cảm xúc thơ nhiều tầng, tứ thơ giàu nghịch lý, với hình tượng nghệ thuật độc đáo, đôi khi gây sốc, nhưng mang đậm tính triết lý nhân sinh.
Nếu "Thuở giòi" đối diện với cái chết, thì "Mặt trời, trăng và thơ" lại là cuộc trò chuyện triết học về bản thể và sáng tạo. Nhà thơ đặt ba đối tượng song song: mặt trời, trăng và thơ. Mặt trời tượng trưng cho sự bất biến, mạnh mẽ, trong khi con người thì “cũ mèm”, “nát bấy”, luôn loay hoay cách tân rồi buông bỏ. Trăng mang hai gương mặt vĩnh hằng nhưng khi mờ khi tỏ, bị mây che khuất, giống như cái tôi con người lúc kiên định, lúc bị dối lừa.
Tứ thơ ở đây là tứ đối chiếu, so sánh, để từ đó đặt ra câu hỏi về khả năng tự do của thi ca. “Với trái tim nô lệ/ viết làm sao câu thơ tự do?”, đó là nghịch lý căn bản của đời sống. Hình tượng nghệ thuật độc đáo ở đây là sự nhân cách hóa mặt trời, trăng và thơ thành ba “bản thể đối thoại”, qua đó, tác giả khai mở một triết luận sâu xa để sự sáng tạo là hành trình đào bới “cái tôi bé mọn”, vượt thoát khỏi những bãi thải ngôn từ để tìm đến tự do đích thực.
Nhìn tổng thể, các bài thơ tuy khác nhau về hình thức nhưng thống nhất trong cảm hứng với bi kịch hiện sinh của con người trước cái chết, sự sáng tạo và thân phận. Hoàng Xuân Tuyền chọn cách tiếp cận trực diện, nhiều khi gây sốc bằng hình tượng giòi, giun, rối là những thứ vốn bị coi là thấp kém, gớm ghê. Nhưng chính qua đó, anh khắc họa cái bi kịch sâu xa nhất là sự mục ruỗng, sự lệ thuộc, sự vô nghĩa. Tứ thơ thường được xây dựng trên nghịch lý, đối chiếu ánh sáng với bóng tối, tự do với nô lệ, thật với giả. Hình tượng nghệ thuật giàu tính biểu tượng, tạo hiệu ứng ám ảnh, buộc người đọc phải suy tư.
Có thể nói, "Thuở giòi", "Mặt trời, trăng và thơ" và "Khóc thật cho một kiếp rối" là ba minh chứng tiêu biểu cho phong cách Hoàng Xuân Tuyền với chất thơ dữ dội, giàu tính thể nghiệm, không né tránh những hình ảnh dị biệt để phơi bày sự thật trần trụi về kiếp người. Chính nhờ thế, thơ anh có sức đánh thức, buộc người đọc đối diện với những giới hạn hiện sinh của chính mình.