Những điểm sáng trong phát triển nguồn nhân lực và các tồn tại, hạn chế cần khắc phục
Báo cáo giám sát chuyên đề về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực giai đoạn 2021-2024 đã chỉ ra nhiều điểm sáng, nhưng cũng tồn tại không ít hạn chế cần khắc phục và đưa ra nhiều kiến nghị quan trọng…

Quang cảnh phiên họp. Ảnh: VPQH cung cấp.
Tiếp tục chương trình của Phiên họp thứ 47, sáng 10/7, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe Kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” giai đoạn 2021-2024.
Nhiều điểm sáng trong phát triển và sử dụng nguồn nhân lực
Trình bày báo cáo, đồng chí Nguyễn Đắc Vinh, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, Phó trưởng đoàn Thường trực Đoàn Giám sát cho biết, Đoàn Giám sát đã thực hiện các hoạt động giám sát một cách khoa học và có hệ thống để thu thập thông tin và đánh giá thực trạng, bao gồm tổ chức các phiên họp, thu thập văn bản chính sách, tổ chức tọa đàm chuyên gia, tiếp nhận báo cáo từ Chính phủ, các Bộ, cơ quan, và 63 tỉnh/thành phố. Phạm vi giám sát tập trung vào phát triển và sử dụng nguồn nhân lực.

Đồng chí Nguyễn Đắc Vinh, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, Phó trưởng đoàn Thường trực Đoàn Giám sát trình bày báo cáo. Ảnh: VPQH cung cấp.
Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành, và địa phương đã ban hành nhiều văn bản định hướng, chính sách, chương trình, đề án về phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quy mô phát triển, cơ cấu phù hợp hơn, trình độ kỹ năng được nâng lên, năng suất lao động, việc làm và thu nhập có chuyển biến tích cực.
Kết quả giám sát cho thấy, quy mô đào tạo đại học và nghề nghiệp ổn định, ngành nghề đa dạng, cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên được quan tâm. Tự chủ đại học bước đầu phát huy hiệu quả. Đặc biệt, việc đào tạo nhân lực chất lượng cao được chú trọng từ phổ thông đến đại học thông qua các chương trình chuyên sâu và hợp tác quốc tế.
Cùng với đó, giai đoạn 2018-2024, nhiều sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ đã được thu hút, tuyển dụng. Một bộ phận nhân lực chất lượng cao có năng lực tiệm cận với các nước tiên tiến, và một số địa phương đã thí điểm chính sách đãi ngộ đặc biệt để giữ chân người tài…
Những tồn tại, hạn chế cần khắc phục
Bên cạnh những kết quả tích cực, báo cáo cũng chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế cần khắc phục để đáp ứng yêu cầu phát triển. Cụ thể là:
Thiếu chiến lược tổng thể: Chính phủ và các địa phương còn thiếu văn bản tổng thể, định hướng chiến lược dài hạn về phát triển nhân lực chất lượng cao, gây khó khăn trong việc xác định nhân tài.

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: VPQH cung cấp.
Nguy cơ thiếu hụt nhân lực chất lượng cao: Việt Nam đối mặt với nguy cơ thiếu chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực mới và quan trọng như khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn.
Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý: Tỷ lệ sinh viên các ngành kinh tế, tài chính, luật còn cao, trong khi các ngành khoa học cơ bản, nông nghiệp giảm. Khoảng 30% sinh viên tốt nghiệp đại học không làm việc đúng ngành, thiếu kỹ năng đáp ứng yêu cầu nhà tuyển dụng.
Hạn chế về cơ sở vật chất và chất lượng giáo viên: Cơ sở vật chất đào tạo còn nghèo nàn, lạc hậu, và một bộ phận nhà giáo còn hạn chế về năng lực.
Bất cập trong chính sách tài chính giáo dục: Ngân sách nhà nước đầu tư thấp, chính sách xã hội hóa chưa hiệu quả, và tự chủ tài chính đại học còn nhiều bất cập.
Chuyển dịch cơ cấu lao động chậm: Tỷ lệ lao động phi chính thức cao (64,6%), thu nhập thấp. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp còn thấp (28,3% năm 2024), với khoảng 38 triệu lao động chưa qua đào tạo.
Phân bố nhân lực chất lượng cao mất cân đối: Tập trung ở các đô thị lớn, chất lượng lao động cải thiện chậm và chưa đáp ứng yêu cầu thị trường.
Bất cập trong khu vực công và ngoài công lập: Công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý nhân lực trong khu vực công còn vấn đề. Chính sách thu hút nhân tài chưa thực sự hấp dẫn về tuyển dụng, thu nhập, và môi trường làm việc.
Kiến nghị nhiều giải pháp căn cơ
Ngoài việc chỉ ra cả nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến những tồn tại, hạn chế nêu trên, báo cáo của Đoàn Giám sát cũng kiến nghị nhiều giải pháp căn cơ.

Quang cảnh phiên làm việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sáng 10/7. Ảnh: VPQH cung cấp.
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế: Tiếp tục thể chế hóa Nghị quyết của Đảng về phát triển nguồn nhân lực, ban hành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030, tầm nhìn 2050. Sửa đổi các luật liên quan như Luật Giáo dục, Luật Viên chức, và ban hành quy định rõ ràng về khái niệm, tiêu chí nhân lực chất lượng cao.
Thứ hai, cần tăng cường phát triển nguồn nhân lực: Tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo tại các cơ sở giáo dục trọng điểm, ưu tiên các ngành mới, quan trọng. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số trong giáo dục. Ưu tiên đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, khuyến khích liên kết đào tạo với doanh nghiệp. Đổi mới hướng nghiệp, xây dựng Quỹ học bổng, đảm bảo đủ ngân sách (tối thiểu 20% chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo), hoàn thiện cơ chế tự chủ giáo dục.
Thứ ba, cần tiếp tục sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả hơn: Chính phủ cần giao một cơ quan chủ trì quản lý nhà nước về phát triển, sử dụng nguồn nhân lực. Tăng cường phân cấp cho địa phương kèm theo nguồn lực. Hoàn thiện đề án vị trí việc làm, chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao vào khu vực công, khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn quốc tế. Đổi mới cơ chế sử dụng, trọng dụng nhân tài để thu hút và giữ chân.
Cùng với đó, thực hiện chính sách đặc thù cho các lĩnh vực quan trọng (ví dụ: công tác xây dựng pháp luật, nhà giáo). Chú trọng thu hút nhân tài là người Việt Nam học tập, làm việc ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài trong các lĩnh vực mới. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý, dự báo, quy hoạch nguồn nhân lực, và phát triển cơ sở dữ liệu lao động quốc gia…