Những người phất cao cờ hồng tháng 8 là nguồn cảm hứng lớn lao trong tôi

1. Trong hành trình sáng tác của mình, có thể nói Biên khu Việt Quế là một trong những tác phẩm tôi dành rất nhiều tâm huyết, bởi tôi luôn coi cuốn sách như nén tâm hương để tưởng nhớ và dâng lên anh linh các chiến sĩ Giải phóng quân Việt Nam năm xưa đã vượt dãy Thập Vạn Đại Sơn trùng điệp sang giải phóng một vùng biên khu rộng lớn của hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông (Trung Quốc) năm 1949. Đây là một chiến dịch ít được nhắc đến, cũng không có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu.

 Các đại biểu tại buổi ra mắt cuốn tiểu thuyết "Biên khu Việt Quế" của nhà văn Phạm Vân Anh.

Các đại biểu tại buổi ra mắt cuốn tiểu thuyết "Biên khu Việt Quế" của nhà văn Phạm Vân Anh.

Do đó, tôi đã dành nhiều ngày ở làng Bằng ở tỉnh Bắc Giang (nay là tỉnh Bắc Ninh) để hình dung lại không gian đại quân “chỉnh huấn” suốt gần 1 tháng trước khi xuất chinh. Đã đến huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn là nơi đại quân xuất kích sang bên kia biên giới. Tôi đã đến thắp hương ở đình Pò Háng, nơi Bác Hồ tặng bức trướng thêu chữ Hán “Kháng chiến hộ quốc”.

Tôi cũng đến huyện biên giới Bình Liêu ở tỉnh Quảng Ninh, leo lên tận đỉnh núi để dễ bề cảm nhận và hình dung các cụ đã vượt qua dãy núi đó như thế nào. Các nhân vật trong Biên khu Việt Quế đa phần đều được xây dựng trên nguyên mẫu là những nhân vật có thật, trực tiếp tham gia các trận đánh lớn nhỏ suốt 4 tháng từ tháng 6 đến tháng 10/1949.

Trong tiểu thuyết, tôi đã dành nhiều trang để viết về nhân dân tỉnh Bắc Giang và Lạng Sơn đã giúp đỡ bộ đội trong chiến dịch những năm tháng ấy, những nguyên mẫu tôi không thể gặp mặt nhưng lại gieo cho tôi rất nhiều cảm xúc. Những nhân chứng kể lại rằng, khi làng Bằng học tập về nhiệm vụ quốc tế, tìm hiểu phong tục tập quán và ngôn ngữ của nhân dân Trung Quốc… đã được bà con trong vùng giúp đỡ rất nhiều. Từ Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên về hội quân, bộ đội thấy hai bên đường có những chiếc lán nhỏ, bà con đã đặt trước cửa những quả bầu khô đựng đầy nước suối đun với lá ổi và một rành đầy lá vả tươi cho bộ đội đỡ khát.

Hay những ngôi làng xơ xác chỉ toàn là phụ nữ, những người mẹ có con đi chiến dịch đã đôi ba năm chưa tạt qua nhà, những người vợ có chồng hy sinh ở đâu không rõ… gắng gỏi bám ruộng nương sống qua ngày. Bà con ăn rau dại, lá rừng, lúa ngô vừa mây mẩy hạt, đã vội vàng ngóng ngày thu hái. Nhưng quá nửa số lương thực thu được, bà con lại dồn cho bộ đội ở làng Bằng.

Tôi đã nhìn lên những rông núi, hình dung năm tháng ấy, đồng bào cần mẫn vận chuyển lương thực, bàn chân ghim vào đá và các bờ ruộng ngoằn ngoèo tiến dần lên. Những chị em người Kinh răng nhưng nhức hạt na, quấn khăn mỏ quạ đòn gánh trĩu cong trên tấm vai gầy và áo cánh nâu bạc màu; chị em người Mán khăn áo sặc rỡ, đầu cạo nhẵn bóng loáng, váy nếp nếp xòe tông tênh theo nhịp gùi; chị em người Tày, Nùng đằm thắm hơn, quần áo chàm có viền chút vải xanh ở cổ áo… Quân đi đến đâu là nhân dân theo đến đó để tiếp lương

3. Nhân vật Chính trị viên Long Xuyên được tôi xây dựng từ nguyên mẫu Đại tá Hoàng Long Xuyên, nguyên Giám đốc Công an Khu tự trị Việt Bắc. Vào thập niên 40 của thế kỷ trước, chàng thanh niên Hoàng Long Xuyên được Bác Hồ chọn cử đi học ở trường quân sự Hoàng Phố.

Khi Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, Hoàng Long Xuyên được phân công về gây dựng cơ sở cách mạng tại huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Thời điểm ấy, phong trào cách mạng ở huyện Hòa An đang phát triển mạnh mẽ, có cán bộ quân sự về thì càng trở nên chính quy và hoạt động có bài bản hơn.

 Tác giả và Thầy thuốc Ưu tú Thân Văn Nhã.

Tác giả và Thầy thuốc Ưu tú Thân Văn Nhã.

Bước vào giai đoạn cao trào kháng Nhật cứu quốc, phân đội do Hoàng Long Xuyên làm Phân đội trưởng nhận được lệnh cấp trên triển khai “Đông tiến” mở đường giao thông liên lạc tới Lạng Sơn và mở rộng căn cứ Cao Bằng đến các huyện thuộc tỉnh Lạng Sơn. Từ ngày 18/8 cho đến ngày 22/8/1945, Phân đội trưởng Hoàng Long Xuyên đã chỉ huy đơn vị hỗ trợ quần chúng cách mạng nhất tề nổi dậy, tiến công quân Nhật.

Ngày 24/8/1945, tại Ba Xã (châu Điềm He), Phân đội trưởng Hoàng Long Xuyên tham gia cuộc họp của Tỉnh ủy Lạng Sơn. Dưới sự chỉ huy của Ban Việt Minh các châu, huyện, lực lượng vũ trang chủ lực của tỉnh cùng quần chúng cách mạng đã giành chính quyền ở huyện Cao Lộc và Lộc Bình, góp phần vào thắng lợi chung của phong trào Cách mạng Tháng Tám trên toàn quốc, tiến đến giành độc lập, tự do cho dân tộc với đỉnh cao là ngày Quốc khánh 2/9/1945.

Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, Hoàng Long Xuyên với tư cách là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28 đã tham gia rất nhiều chiến dịch quan trọng của Mặt trận Việt Minh. Năm 1949, Trung đội trưởng Hoàng Long Xuyên được cử làm Phó Tư lệnh Mặt trận Long Châu, tham gia chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn giúp Trung Quốc giải phóng biên khu Quảng Tây và Vân Nam.

4. Nhân vật Trần Bình được lấy cảm hứng từ người thầy dạy ca trù mà tôi có cơ duyên gắn bó khi đang là học sinh lớp 10: Nghệ nhân Nguyễn Hãn - bí danh “Hãn Đen”, một trong những nghệ nhân trống chầu hàng đầu Việt Nam sau này. Năm 1945, ông là một trong “tứ hổ” bảo vệ tướng quân Nguyễn Bình, trực tiếp tham gia giải phóng khu Đông Triều. Ông kể rằng, trước tình hình cách mạng đang có những biến chuyển theo chiều hướng thuận lợi, ông cùng tổ du kích 6 người do đồng chí Nguyễn Hữu Hãn - bí danh “Hãn Béo” chỉ huy tiến về Đông Triều.

Đêm 20/7/1945, cả Quảng Yên rung chuyển trong tiếng súng nổ và tiếng quân reo hò không ngớt. Ta chiếm được các cơ quan đầu não và làm chủ được tình hình. Toàn bộ số lính khố xanh đều buông súng đầu hàng, một nửa xin về với gia đình, còn một nửa tình nguyện theo ta tiếp tục chiến đấu. Trận ấy, ta thu được trên 200 khẩu súng cùng gần 3 vạn bạc và tiến hành thành lập chính quyền lâm thời tại đây, góp công lớn vào thành công chung của phong trào Cách mạng Tháng Tám trên cả nước.

Về già, nghệ nhân Nguyễn Hãn đã có nhiều đóng góp trong việc truyền dạy nghệ thuật đánh trống chầu và sáng tác lời mới cho các làn điệu ca trù. Những tư liệu cá nhân và sự hiểu biết, tài hoa của ông đã có nhiều giá trị cho công trình Hồ sơ nghiên cứu ca trù của Viện Văn hóa và được đệ trình UNESCO đề nghị công nhận Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

 Nhà văn Phạm Vân Anh, tác giả cuốn tiểu thuyết "Biên khu Việt Quế".

Nhà văn Phạm Vân Anh, tác giả cuốn tiểu thuyết "Biên khu Việt Quế".

5. Người thiếu niên dũng cảm đảm nhận nhiệm vụ chiến sĩ liên lạc Văn Nhã trong Biên khu Việt Quế có nguyên mẫu là Thầy thuốc Ưu tú Thân Văn Nhã. Tôi đã dựa vào những chi tiết đắt giá trong cuốn hồi ký của cụ tặng để xây dựng nên nhân vật này. Trong hồi ký, cụ có thuật lại cảnh những chiến sĩ Giải phóng quân Việt Nam đi chân trần trên đá tai mèo sắc nhọn. Các chiến sĩ không có thuốc, chân liên tục bị thương, phải tìm cây ngải cứu rừng đem vò, nhai nát đắp lên vết thương và lấy lá chuối, lá rừng bọc lại.

Rồi giữa màn đêm âm u, đoàn quân vượt rừng, không có la bàn, không được đốt đuốc, soi đèn để đảm bảo tính bí mật. Do đó, ngoài trang thiết bị chiến đấu, mỗi người còn phải mang trên vai một thanh củi mục để trong đêm đen tỏa ra ánh lân tinh. Từng trung đội hay đại đội có thể nhìn thấy những đốm sáng như đàn đom đóm bay của đơn vị đi trước, giúp các chiến sĩ định hình con đường. Những chi tiết ấy không ai đủ sức tưởng tượng ra được, chỉ có chính những người lính trực tiếp trải nghiệm mới có thể kể lại được. Đây thật sự là những “mỏ vàng” mà cụ dành cho người sáng tác như tôi.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong chiến dịch, cụ Thân Văn Nhã tiếp tục chiến đấu ở biên khu thuộc Tỉnh đội Hải Ninh cho đến khi kháng chiến chống Pháp thành công. Tiếp đó, cụ xin chuyển ngành, theo học tại Trường Đại học Y Hà Nội và công tác tại Bệnh viện Bạch Mai. Những kinh nghiệm được tích lũy từ sách vở và qua thực tiễn làm việc đã giúp cụ lĩnh hội được nhiều bài thuốc tinh hoa của dân tộc và trở thành một thầy thuốc giỏi. Cụ không những hiểu biết uyên thâm về cơ thể người cũng như công dụng của vô số dược liệu trong đông y mà còn đặc biệt nổi trội với đôi “bàn tay vàng” trong lĩnh vực châm cứu.

Được cảm nhận, chia sẻ, rung cảm trước những chiến công của tiền bối cũng như chiến công của đồng chí, đồng đội hôm nay và chuyển hóa thành những trang văn, ý thơ, đối với tôi là một niềm tự hào. Những nguyên mẫu mà tôi có may mắn gặp gỡ đều là những người có công lớn với đất nước, với dân tộc, nhưng sau này sống rất bình dị. Cuốn sách của tôi như một lời tri ân của thế hệ trẻ hôm nay đối với những con người đã góp phần làm nên lịch sử dân tộc.

Phạm Vân Anh

Nguồn Bắc Ninh: https://baobacninhtv.vn/nhung-nguoi-phat-cao-co-hong-thang-8-la-nguon-cam-hung-lon-lao-trong-toi-postid425330.bbg