Những người phất cao cờ hồng Tháng Tám trong 'Biên khu Việt Quế'
Tiểu thuyết 'Biên khu Việt Quế' ra đời đã được đánh giá tốt, tạo tiếng vang và giành được một số giải thưởng văn học. Điều đó vừa là niềm vui, song cũng là động lực giúp tôi nỗ lực hơn nữa đối với đề tài chiến tranh cách mạng và vẻ đẹp 'Bộ đội Cụ Hồ'.

Tác giả của Biên khu Việt Quế - Trung tá, nhà văn Phạm Vân Anh (trái) cùng Thầy thuốc ưu tú Thân Văn Nhã.
1
Trong hành trình sáng tác của mình, có thể nói tiểu thuyết "Biên khu Việt Quế" là một trong những tác phẩm tôi dành rất nhiều tâm huyết, bởi tôi vẫn luôn coi cuốn sách như nén tâm hương để tưởng nhớ và dâng lên anh linh của các anh hùng liệt sĩ, chiến sĩ Giải phóng quân Việt Nam năm xưa đã theo vượt dãy núi Thập Vạn Đại Sơn trùng điệp giữa Việt Nam và Trung Quốc để sang giải phóng một vùng biên khu rộng lớn của tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông của Trung Quốc năm 1949.
Đây là một chiến dịch ít được nhắc đến, cũng không có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu. Trong quá trình viết, với mong muốn không phải một tác phẩm sáng tạo giả tưởng mà là một cuốn văn học sử, tôi đã tìm được một số thông tin khái quát trong Từ điển Bách khoa Toàn thư Quân sự Việt Nam, Lịch sử công tác Đảng, công tác chính trị của Quân khu 1, Hồi ký của Đại tướng Chu Huy Mân và Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp...
Ngoài ra, còn có một số cuốn sách xuất bản trước năm 1979 của phía Trung Quốc với những câu văn hết sức trân trọng, tình nghĩa biểu thị cho sự biết ơn, tri nhân Quân đội nhân dân Việt Nam giúp giải phóng biên khu Việt Quế, giúp lão bá tánh của biên khu có đời sống no ấm.
Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó. Tôi đã đến từng nơi, quay trở về khu du kích Bắc Sơn ở Lạng Sơn để viết về anh Tiểu đoàn trưởng Biên Cương và chính trị viên Long Xuyên. Nơi mà đại quân xuất kích sang bên kia biên giới là huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
Tôi đã đến thắp hương ở đình Pò Háng, nơi Bác Hồ tặng cho bức trướng thêu chữ Hán "Kháng chiến hộ quốc", phía dưới phiên âm bằng chữ quốc ngữ là "Chiến kháng hộ ủng" về thành tích ủng hộ về mặt tâm linh cho quân dân của chiến khu, chúng ta có được một khu căn cứ trong giai đoạn chống Pháp ác liệt.
Tôi cũng đến huyện biên giới Bình Liêu ở Quảng Ninh, leo lên tận đỉnh núi để làm sao cảm nhận và hình dung được các cụ đã vượt qua dãy núi đó như nào.
2
Trong cuốn tiểu thuyết này, Tư lệnh Lê Quảng chính là Thiếu tướng Lê Quảng Ba (1915 - 1988), Tư lệnh Chiến dịch "Thập Vạn Đại Sơn". Tiểu đoàn trưởng Biên cương là chỉ huy trưởng Tiểu đoàn 426 thuộc Trung đoàn 59, Liên khu 1 – thường được gọi là Tiểu đoàn Biên Cương.

Trung tá, nhà văn Phạm Vân Anh cùng đồng nghiệp thăm Đại tá Hoàng Long Xuyên.
Chính trị viên Long Xuyên là Đại tá Hoàng Long Xuyên (1917 – 2023), nguyên Giám đốc Công an khu tự trị Việt Bắc.
Tiểu đoàn phó Trần Bình lấy cảm hứng từ nghệ nhân Nguyễn Hãn (1917 – 2008), cán bộ tiền khởi nghĩa, một trong "tứ hổ" của Trung tướng Nguyễn Bình.
Chiến sĩ liên lạc Văn Nhã là Thầy thuốc Ưu tú Thân Văn Nhã (97 tuổi), nguyên bác sĩ chuyên khoa I, Khoa Y học cổ truyền, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang.
Khu ủy Thông Pháy chính là Khu ủy viên Trần Gia (đã mất) có vai trò quan trọng trong kết nối đón tiếp đại quân của chúng ta bên kia biên giới.
Các nhân vật đều xây dựng trên nguyên mẫu là những nhân vật có thật, trực tiếp tham gia các trận đánh lớn nhỏ suốt 4 tháng từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1949.
Đương nhiên trong cuốn tiểu thuyết này tôi cũng dành những phân đoạn nhất định để nói về tình quân dân hai bên biên giới, những nguyên mẫu tôi không thể gặp mặt nhưng lại gieo cho tôi rất nhiều cảm xúc. Nhân dân Việt Nam những năm đó đi dân công hỏa tuyến, sẵn sàng mất nhà mất cửa, cắt lúa non, thậm chí nhịn ăn nhịn mặc. Bản thân ăn củ mài, củ ráy, thân chuối nhưng đồng bào vẫn dành những hạt gạo, hạt ngô quý giá đó để gửi cho kháng chiến.
Nhân dân Trung Quốc cũng vậy! Bà con vùng biên khu trải qua hơn chục năm hết bị quân Tưởng chà đi xát lại, trấn lột, bắt nộp tiền bạc, lương thực thực phẩm đến thổ phỉ cướp bóc. Thấy một đoàn quân hùng hậu ào ào từ trên núi xuống, họ cũng rất lo sợ, bất an, dè chừng. Nhưng cùng với sự cảm hóa, công tác dân vận của Giải phóng quân Việt Nam, bà con vô cùng cảm phục tấm lòng của những người lính.
3
Với nhân vật Chính trị viên Long Xuyên, trong quá trình tìm hiểu, năm 2020 tôi đã đến Đồng Hỷ, Thái Nguyên để gặp Đại tá Hoàng Long Xuyên. Khi ấy cụ 103 tuổi, mặc bộ quân phục cũ ngồi kể chuyện ngày xưa ở Cao Bằng, được Bác Hồ và Bác Giáp chọn học trường quân sự Hoàng Phố.
Cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 1944, đoàn thanh niên học quân sự rời thị trấn Đại Kiệt (Trung Quốc) về Tổ quốc để hội quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo, chuẩn bị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Ông được phân công về gây dựng cơ sở cách mạng tại huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Thời điểm ấy, phong trào cách mạng huyện Hòa An đang phát triển mạnh mẽ, có cán bộ quân sự về thì càng trở nên chính quy và hoạt động có bài bản hơn.
Bước vào giai đoạn cao trào kháng Nhật cứu quốc, phân đội của ông Long Xuyên nhận được lệnh cấp trên triển khai "Đông tiến" mở đường giao thông liên lạc tới Lạng Sơn và mở rộng căn cứ Cao Bằng đến các huyện thuộc Lạng Sơn. Ngay sau khi nhận lệnh, tất các cả đội viên trong phân đội Long Xuyên đã nhanh chóng chuẩn bị lương thực và kiểm tra lại vũ khí, đạn dược…, vượt ranh giới sang huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, chiến đấu dũng cảm, lần lượt đánh chiếm các bốt đồn của địch.
Từ ngày 18 tháng 8 cho đến ngày 22 tháng 8, Phân đội trưởng Hoàng Long Xuyên đã chỉ huy đơn vị tiến hành hỗ trợ quần chúng cách mạng đã nhất tề nổi dậy, tiến công quân Nhật.
Ngày 24/8/1945, tại Ba Xã (châu Điềm He), phân đội trưởng Hoàng Long Xuyên tham gia cuộc họp của Tỉnh ủy Lạng Sơn. Hội nghị thành lập Ban Chỉ đạo khởi nghĩa của tỉnh. Tới 13h chiều, ta đã chiếm lĩnh các vị trí trọng yếu, phá đề lao, giải thoát cán bộ và quần chúng bị địch bắt. Phân đội Long Xuyên phối hợp cùng các đơn vị bao vây dinh Tỉnh trưởng, buộc Tỉnh trưởng bù nhìn Linh Quang Vọng phải đầu hàng.
Tiếp đó, dưới sự chỉ huy của Ban Việt Minh các châu, huyện, lực lượng vũ trang chủ lực của tỉnh cùng quần chúng cách mạng đã giành chính quyền ở Cao Lộc và Lộc Bình. Sau khi toàn quốc kháng chiến, Hoàng Long Xuyên với tư cách là Trung đoàn trưởng trung đoàn 28 đã tham gia rất nhiều chiến dịch quan trọng của mặt trận Việt Minh.
Năm 1949, ông được cử là Phó Tư lệnh mặt trận Long Châu, tham gia chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn giúp Trung Quốc giải phóng biên khu Quảng Tây và Vân Nam.
4
Nhân vật Trần Bình được lấy cảm hứng từ người thầy dạy ca trù mà tôi có cơ duyên gắn bó khi đang là học sinh lớp 10. Nghệ nhân Nguyễn Hãn, một trong những nghệ nhân trống chầu hàng đầu Việt Nam, cũng là một trong "tứ hổ" bảo vệ tướng quân Nguyễn Bình, trực tiếp tham gia giải phóng khu Đông Triều.

Nghệ nhân Nguyễn Hãn đệm trống chầu cho nhà văn Phạm Vân Anh hát ca trù tại Nhà thờ danh nhân Dương Lâm - Dương Khuê, Hà Nội.
Ông gia nhập một tổ du kích 6 người của do đồng chí Nguyễn Hữu Hãn - biệt danh "Hãn Béo" chỉ huy và tới gặp nhà tư sản yêu nước Nguyễn Sơn Hà xin được mượn một chiếc xe ô tô. Trên đường sang Quảng Yên, họ đã trấn áp những tên Việt gian thân Nhật, khống chế các đội lính dõng và tên cai Nhật chủ xưởng đất đèn, tước vũ khí và buộc chúng mở kho phát lương thực, tiền và muối cho dân chúng.
Xe vừa vào tới Đông Triều, bị chặn lại tra xét. Ông Nguyễn Hãn trả lời: "Chúng tôi là đội du kích đến từ Hải Phòng, trên đường sang đây đã cướp được một số vũ khí xin nộp lại cho đồng chí chỉ huy mặt trận ". Lúc ấy, một người đàn ông tầm thước, đeo kính đen từ phía sau đám đông bước lên hỏi cặn kẽ sự việc rồi bảo: "Chúng tôi trù tính là ngày mai sẽ tiến đánh Quảng Yên, nhưng các anh đã sang đây và đánh động chúng rồi nên ngay đêm nay chúng ta tiến hành luôn để bọn chúng không kịp chuẩn bị".
Đêm 20 tháng 7, cả Quảng Yên rung chuyển trong tiếng súng nổ và tiếng quân reo hò không ngớt. Ta chiếm được các cơ quan đầu não và làm chủ được tình hình. Toàn bộ số lính khố xanh đều buông súng đầu hàng, một nửa xin về với gia đình còn một nửa tình nguyện theo ta tiếp tục chiến đấu. Trận ấy, ta thu được trên 200 khẩu súng và gần 3 vạn bạc và tiến hành thành lập chính quyền lâm thời tại đây.
Sau khi chính quyền lâm thời Quảng Yên được thành lập, nhóm của ông Hãn nhận được chỉ thị về Hải Phòng và tham gia hoạt động an ninh nội tuyến. Về già, Nghệ nhân Nguyễn Hãn đã có nhiều đóng góp trong việc truyền dạy nghệ thuật đánh trống chầu và sáng tác lời mới cho các làn điệu ca trù. Những tư liệu cá nhân và sự hiểu biết, tài hoa của ông đã có nhiều giá trị cho công trình "Hồ sơ nghiên cứu ca trù" của Viện Văn Hóa và được đệ trình UNESCO đề nghị công nhận di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
5
Người thiếu niên dũng cảm đảm nhận nhiệm vụ chiến sĩ liên lạc Văn Nhã – nguyên mẫu là Thầy thuốc ưu tú Thân Văn Nhã là người mang lại cho tôi nhiều chi tiết đắt giá nhờ cuốn hồi ký mỏng mà cụ đã dày công ghi lại. Trong đó kể về những chiến sĩ giải phóng quân Việt Nam đi chân trần trên đá tai mèo sắc nhọn. Các cụ không có thuốc, chân liên tục bị thương. Họ đi tìm cây ngải cứu rừng đem vò, nhai nát đắp lên vết thương và lấy lá chuối, lá rừng bọc lại. Rồi giữa màn đêm âm u, đoàn quân vượt rừng, không có la bàn, không được đốt đuốc, soi đèn để đảm bảo tính bí mật.
Do đó, ngoài trang thiết bị chiến đấu, mỗi người còn phải mang trên vai một thanh củi mục để trong đêm đen tỏa ra ánh lân tinh. Từng trung đội hay đại đội có thể nhìn thấy những đốm sáng như đàn đom đóm bay của đơn vị đi trước, giúp các chiến sĩ định hình con đường. Những kiến thức ấy không thể có sức tưởng tượng nào nghĩ ra, chính những người lính trải nghiệm mới thực sự có thể kể và cung cấp cho tôi những hình ảnh mà khi nói đến, nghĩ đến tôi đã vô cùng xúc động.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong chiến dịch, ông Thân Văn Nhã tiếp tục chiến đấu ở biên khu thuộc Tỉnh đội Hải Ninh cho đến khi kháng chiến chống Pháp thành công. Tiếp đó, ông xin chuyển ngành, theo học tại Trường Đại học Y Hà Nội và công tác tại Bệnh viện Bạch Mai. Những kinh nghiệm được tích lũy từ sách vở và qua thực tiễn làm việc đã giúp ông lĩnh hội được nhiều bài thuốc tinh hoa của dân tộc và trở thành một thầy thuốc giỏi. Ông không những hiểu biết uyên thâm về cơ thể người cũng như hiệu quả công dụng của vô số dược liệu trong đông y mà còn đặc biệt nổi trội với đôi "bàn tay vàng" trong lĩnh vực châm cứu.
Thật vinh dự cho tôi khi cuốn tiểu thuyết "Biên khu Việt Quế" ra đời đã được đánh giá tốt, tạo tiếng vang và giành được một số giải thưởng văn học. Điều đó vừa là niềm vui, song cũng là động lực giúp tôi nỗ lực hơn nữa đối với đề tài chiến tranh cách mạng và vẻ đẹp "Bộ đội Cụ Hồ".
Được cảm nhận, chia sẻ, rung cảm trước những chiến công của tiền bối cũng như chiến công của đồng chí, đồng đội hôm nay và chuyển hóa nó thành những trang văn, ý thơ, đối với tôi là một niềm tự hào. Những nguyên mẫu mà tôi có may mắn được gặp gỡ đó đều là những người có công lớn với đất nước, với dân tộc, nhưng sau này sống rất bình dị.
Tôi muốn được tôn vinh những cống hiến, hi sinh của họ như một lời tri ân, biết ơn của thế hệ trẻ đối với những con người đã góp phần làm nên lịch sử dân tộc.